March 19, 2016

Vượt Biên Đường Bộ - Huyên Chương Quý

Trích sách “Khát Vọng Tự Do”

Huyên Chương Quý 

Vượt Biên Giới 

Site A -1984 (hình minh họa)
(photo courtesy of Vu Quan and Trinh Huy Chuong)

Nước Thái ở hướng Tây Campuchia. Khi mới vào rừng, tôi cứ nhắm hướng Tây đi tới, gần gần con đường mòn, để tránh bị lạc hướng. Lần lần, có nhiều cây rừng rậm rạp che khuất, hoặc nhiều vũng bùn lầy rộng chắn lối, tôi phải đi vòng đến những nơi thưa cây nên xa dần đường mòn, bị lạc luôn trong rừng.

Trời không trăng. Trong đêm tối, tôi phải vẹt cây gai, cây dại dầy đặc nên tốc độ đi rất chậm. Thời khắc trôi qua theo từng bước chân, tôi chẳng biết đi được bao xa rồi. Nếu muốn quay về cũng không biết đi theo hướng nào. Thôi, cứ bước tới. Tối nay tìm chỗ ngủ sớm, đợi ngày mai xem mặt trời, sẽ dễ định ra hướng Tây. 

Rán đi tiếng nữa, bụng cồn cào. Tôi chợt nhớ từ xế chiều đến giờ chưa ăn gì. Nhịn đói thôi. Mai tìm trái cây rừng để ăn. Đến một vũng nước, tôi vốc nước uống đầy bụng rồi đi tiếp. Hai năm trước theo đơn vị hành quân, vài lần đóng quân trong rừng, nhưng có đồng đội chung quanh, nên không có gì sợ hay buồn. Bây giờ, một mình trơ trọi, chung quanh là màn đêm thăm thẳm, tôi thấy sợ sợ. Thêm cái cảm giác thật cô đơn, buồn bã khi nhìn lại mình như một bóng ma trơi trong rừng đêm. Thấm mệt rồi, nhịn đói ngủ thôi. 

Tôi bứng nhiều bụi cỏ đem đến lót nơi một lùm cây rậm rạp. Tiết trời mùa đông ban đêm, lúc đi không thấy lạnh, nhưng khi nằm xuống cỏ, thấy lạnh kinh khủng. Chỉ mặc cái quần sọt và áo thun ngắn tay mỏng manh, nên cả người tôi run lên cầm cập. Tôi nằm co quắp người lại cố dỗ giấc ngủ. Cái lạnh, cái đói hành hạ, lại có nhiều tiếng ù u, ù u vang vang ở xa xa, và tiếng sột soạt của thú rừng đi ăn đêm, tôi không thể nhắm mắt. 

Thao thức đến trời tờ mờ sáng, tôi ngủ luôn một giấc say sưa. Thức dậy, đã 12 giờ trưa. Nắng chang chang chói hai con mắt. Tội tìm vũng nước rửa mặt và vốc nước uống. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu. Thế này, biết hướng nào là hướng Tây? 

Giải quyết cái đói trước đã. Tôi đi vòng vòng tìm trái cây rừng. Tìm cả tiếng vẫn không thấy một loại cây nào có trái. Mặt trời đã hơi nghiêng về phía Tây. Nhịn đói đi vậy. Tôi phải luồn lách qua nhiều khu cỏ gai, tránh những đám cây rậm, vòng qua những đầm nước rộng, nên có  lúc phải rẽ sang Nam, lúc quẹo qua Bắc, rồi mới tiếp tục đi theo hướng Tây. Mệt thì ngồi nghỉ chút, thấy đói thì uống nước vũng cầm hơi. Đi sáu tiếng rồi vẫn không thấy biên giới Thái đâu. 

Mặt trời dần tắt nắng. Bóng tối dần phủ xuống cả khu rừng. Tôi lại phải dò dẫm đi từng bước. Gai cào sước khắp tay, chân, đau buốt. Bao tử, ruột, gan muốn nát vụn vì sự cào cấu của cơn đói. Hai ngày rồi không ăn gì. Lần đầu tiên tôi mới thấm thía cái đói thật sự như thế nào. Thèm cho vào bụng bất cứ cái gì, dù là vỏ cây, lá cây hay cỏ dại để có thể qua được cơn đói. Tôi còn đủ lý trí không làm như vậy vì sợ bị trúng độc, sẽ ngã bệnh. Bệnh nặng trong cảnh một thân, một mình nơi rừng sâu lạnh lẽo thế này đồng nghĩa với cái chết. Sẽ bỏ xác trong rừng sâu không ai biết đến. Chỉ còn biết uống nước vũng dằn bụng. Rán đi thêm hai tiếng nữa, tôi lại bứng cỏ lót chổ nằm trong lùm cây rậm.
Vừa chợp mắt ngủ được một chút thì mưa gió trùm phủ khu rừng. Tôi ngồi dậy, co rúm người vì lạnh. Nước mưa tạt xối xả lên người. Tôi chui vào một bụi cây rậm nhất, vẫn không tránh được nước mưa. Người tôi run lên từng hồi như bị mắc kinh phong. Mưa càng lúc càng to. Gió rít liên hồi, cây rừng nghiêng ngả. Đến sáng, mưa bớt dần, không dứt hẳn. 

Suốt đêm không ngủ, phải chịu đựng mưa gió, tôi mệt quá, nhưng cũng cố gắng lên đường. Đi loanh quanh suốt buổi trong trời mưa rỉ rả. Lại xui, đôi dép bị đứt quai. Đành đi chân không. Rừng thẳm âm u trong cảnh trời tù mù không thấy mặt trời kéo dài năm ngày liền. Tôi không phân biệt được phương hướng, cứ đi lòng vòng mãi. Chỉ thấy rừng tiếp nối rừng. Đi chân không trong rừng là cả một cực hình. Hai chân chảy máu, bắt đầu sưng lên. Tôi đi cà nhắc từng bước một. 

Nhịn ăn bảy ngày rồi. Bao tử đã tê liệt nên tôi không còn cảm giác biết đói nữa. Nước vũng kéo dài sinh mạng tôi. Thân xác rã rời, nhiều khi ngất xỉu, không biết bao lâu, tỉnh dậy lại loang choạng bước đi. Tôi không còn ý thức ngày và đêm nữa, có lúc cảm thấy tuyệt vọng lắm. Quý ơi ! Mày không thể chết lặng lẽ trong rừng sâu thế này. Phải sống, phải tiến tới để tìm được bến bờ tự do. Tôi quỳ xuống khấn nguyện Ơn Trên thiêng liêng phù hộ cho tôi vượt thoát khu rừng. Với ý chí sinh tồn mạnh mẽ, cùng với niềm tin có Ơn Trên cứu độ, tôi cứ cà nhắc từng bước đi tới.
Mưa đã dứt hẳn. Tôi có được một đêm ngủ thật say đến 2 giờ trưa hôm sau. Có sức lực, thêm trời nắng tốt và mặt trời chỉ hướng Tây, tôi lần ra được dấu vết xe bò hằn trên cỏ. Đi theo đường xe bò bốn tiếng, rừng thưa dần, và trước mặt tôi là một khu vườn chuối. Đã ra khỏi rừng.
Tính ra, tôi bị lạc trong rừng tám ngày, đêm. "Được sống rồi...Được sống rồi !" Tiếng reo to của tôi đem đến sự hiểm nguy. Hai tên lính Polpot không biết từ đâu lù lù hiện ra. Tôi bị chúng chỉa súng đưa đến một căn lều tranh lụp xụp trong vườn chuối. Lúc đó, có sáu người vượt biên khác cũng đang bị một toán lính Polpot dẫn tới. Chúng tôi bảy người, bốn đàn ông và ba phụ nữ trẻ đẹp bị chúng bắt cởi hết quần áo. Hai tên đứng chĩa súng, bốn tên lục các quần áo tìm vàng, bạc. Còn ba tên lần lượt khám xét từng người chúng tôi để lấy nữ trang, đồng hồ. Tôi chỉ có cái đồng hồ đeo tay bị chúng lột ngay. Ba người phụ nữ bị hai tên lính vừa khám xét lấy nữ trang vừa mò mẫm khắp chổ kín. Lục xét xong, chúng cho bốn đàn ông được mặc đồ lại và ngồi xuống một góc nhà, còn ba phụ nữ vẫn bị bắt đứng trần truồng như nhộng trước mắt mọi người.

Trời chạng vạng, bọn lính Polpot tụm lại ăn cơm. Họ không cho chúng tôi ăn uống gì. Cơm nước xong, ba tên cầm súng ra đứng canh trước cửa, sáu tên còn lại trong nhà kéo ba cô gái nằm xuống đất để thỏa mãn dục vọng. Các cô dẫy dụa, la hét, van xin. Nghe tiếng nói, tôi nhận ra hai cô người Việt, một cô người Tàu. 

Mặc cho các cô kêu gào, khóc lóc thảm thiết, chúng vẫn tiếp tục hành vi cầm thú. Một anh trong nhóm ba đàn ông bị bắt chung bổng hét lên "Đ.M... Tao liều chết với tụi mày" rồi nhảy vào kéo bật hai tên lính Miên ra khỏi thân thể trần truồng của hai cô gái Việt. Một người đàn ông Việt khác cũng nhảy ào tới giúp sức cho anh. Có lẽ hai anh là người thân của hai cô gái. Cả ba, bốn tên lính Miên cùng nhào vào đấm, đá túi bụi hai anh. Sự uất ức biến thành sức mạnh, hai anh can đảm chống đỡ và đánh trả lại. Thấy cảnh hổn chiến kéo dài, một tên lính Miên cầm súng gác ở cửa chạy vào dùng báng súng nện liên tục lên đầu một anh. Máu trên đầu anh tuôn xối xả; anh ngã lăn kềnh ra mặt đất, nằm bất động. Tiếp theo là hai, ba tiếng súng nổ. Anh thứ hai bị trúng đạn cũng đổ nhào cả thân người xuống đất. Tên lính Miên còn điên cuồng dí họng súng gần mặt xác chết bắn thêm vài phát nữa. Bấy giờ, tôi đã ngồi thụp xuống ở xó lều. Thừa lúc lộn xộn đó, trong màn đêm bao phủ, tôi từ từ bò ra vườn chuối. Khi bò khá xa căn lều tranh, tôi đứng dậy đi cà nhắc theo đường xe bò. Nhiều tiếng súng nổ sau lưng. Với lòng cầu sống, dù chân bị sưng, tôi vẫn chạy thục mạng, nhanh như gió. Không biết bao lâu, đuối sức, tôi nằm ngã ra trên một bãi cỏ. Máu chảy dầm dề ở hai bàn chân, nhức nhối không tả xiết.
Trời tối đen. Chung quanh yên tĩnh. Giờ này cũng khuya. Tôi cố gắng vẹt cỏ tranh bò tới. Đường xe bò được tiếp nối bằng một con đường đất khá rộng. Tiếp tục bò theo con đường đất, khoảng tiếng sau, trước mắt tôi hiện ra một bờ hào cao, dài tít tắp, có bóng  người lính cầm súng đứng trên một vọng gác. Tôi đoán đây là biên giới Thái. Lòng mừng rỡ như được thấy cha mẹ sống lại, tôi chậm chạp bò đến gần bờ hào. Nhờ trời tối, lính Thái không nhìn thấy, tôi vượt qua biên giới Thái dễ dàng. Con đường dẫn đến bến bờ tự do đang thênh thang phía trước. Tôi không ngờ... vẫn còn nhiều hiểm nguy đang chờ đón tôi !

Vướng Cảnh Lao Tù 

Qua khỏi biên giới, trước mắt tôi là đường lộ nhựa. Quên hẳn cơn đau của hai bàn chân, tôi đứng dậy đi tới. Khoảng 30 phút sau, thấy có nhiều ánh đèn leo lét trong những ngôi nhà ở xa xa hai bên đường, tôi đoán là nhà dân nên quẹo vô một lối mòn, đi đến khu nhà bên trái. Tôi vào trúng một căn nhà bếp, có sẵn cơm, thức ăn trong vài cái nồi trên bếp. Đã nhịn đói suốt tám ngày, nên quên chuyện phải xin phép chủ nhà, tôi vội lấy dĩa, muỗng bới cơm, lấy thức ăn. Trong lúc vội vàng, tôi làm rớt cái nắp nồi gây nên tiếng động lớn trong đêm. Có tiếng người chạy đến. Tôi nhảy ngay xuống đường mương sau bếp. Vài phút sau, một họng súng M16 chỉa xuống đầu tôi. Thì ra đây là trại lính Thái. Tôi bị bắt, đưa vào một ngôi nhà rộng. Tôi nói bằng tiếng Anh là tôi đói bụng lắm, họ lấy cho tôi dĩa cơm với trứng chiên. Tôi ăn ngấu nghiến thoáng cái đã sạch dĩa. Vừa ăn xong, tôi bị một anh lính Thái chỉa súng lục vào đầu, tra khảo :
-  Are you vi xi ? ( VC )
Hiểu họ đoán tôi là bộ đội Việt cộng, tôi vội trả lời :
-  No vi xi. I am student from Saigon.
-  Why you coming here?
-  I’m looking for freedom. I just want to go to America
Anh lính Thái gằn giọng:
-  I don t believe. You are vi xi.
Ngay sau câu nói là anh đấm vào mặt tôi, và hét lớn:
 - You, vi xi., vi xi.
Tôi cũng hét lên :
-  No ! I am not a vi xi.
Người lính Thái càng tức giận, đấm, đá tôi liên tục, còn lấy súng lục nện vào đầu tôi. Vừa khi thấy máu đầu chảy xuống lênh láng trên mặt, trên áo thì tôi ngất xỉu. Sáng tỉnh dậy, đã thấy một người lính Thái già đứng trước mặt. Ông nói tiếng Việt :
-  Tôi là trung tá, tư lệnh ở đây. Sao em bị đánh như vầy?
Tôi mếu máo :
-  Dạ. Họ nói em là Việt cộng nên đánh em. Em là sinh viên ở Sài Gòn đi tìm tự do.
Vừa nói, tôi vừa lấy ra bọc ni long có vài hình ảnh người thân và thẻ sinh viên đưa cho ông, nói tiếp:
- Ông xem giùm, em là sinh viên trường đại học Văn khoa. Em vượt biên qua đây để xin đi Mỹ.
Ông trung tá Thái xem qua giấy tờ, gật đầu :
-  Được rồi. Em chờ đây, chút có xe đến chở em vào trại tị nạn. Hồi trước tôi có tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Tôi có vợ Việt ở Gia Định. Em an tâm nhé.
Mừng quá, tôi yên trí ngồi chờ. Khoảng nửa tiếng sau, xe đến chở tôi đi, nhưng không chở đi trại tị nạn mà chở đến Ty công an A Ran. Công an Thái tịch thu hết giấy tờ, hình ảnh trong bọc ni long của tôi và tống tôi vào nhà tù.
Sau ba ngày giam giữ, họ chở tôi vào trại lính Khmer Tự do ở trên phần đất Campuchia sát biên giới Thái. Tôi cứ đinh ninh đây là thủ tục phải như vậy trước khi được cho vào trại tị nạn. Ngờ đâu, lính Khmer Tự do đem nhốt tôi vào một cái chuồng gỗ thấp lè tè, phải khom khom người khi xê dịch. Trong chuồng gỗ đã có hai thanh niên người Việt gốc Hoa. Một người có vẻ lớn tuổi hơn cho biết họ là anh em ruột, ở Chợ Lớn, bị bắt nhốt vào đây nửa tháng rồi.
Hàng ngày, chúng tôi bị lính Khmer Tự do bắt đi lao động, đào hầm, hố, đốn cây, chẻ củi. Họ cho chúng tôi ăn ngày hai bửa cơm trắng với muối. Mỗi cuối tuần được ăn một bửa cơm với cá hộp. Tôi lo lắng, không biết phải chịu đựng kiếp lao tù này đến lúc nào?!.
Một buổi trưa, sau khi đào xong cái mương, được cho ngồi nghỉ, tôi hỏi một anh lính Khmer Tự do biết tiếng Việt :
-  Anh có biết chúng tôi chừng nào được cho vào trại tị nạn không ?
-  Không biết nữa. Khi nào "ông lớn" thấy vui thì thả các anh.
Tôi than thở :
-  Tôi bị nhốt ở đây gần tháng rồi. Biết chừng nào "ông lớn" vui đây? Anh có thể thả tôi đi không ?
-  Đâu được. Anh muốn tôi bị nhốt như anh hở? Ông lớn nghiêm lắm.
Tôi hỏi dò :
-  Hình như trại tị nạn ở gần đây phải không anh?
-  Ừa. Có trại tị nạn NW9 cách đây hai cây số.
 Tôi chỉ ra hướng con đường ở xa xa ngoài trại lính, hỏi :
-  Thỉnh thoảng tôi thấy có xe Jeep cắm cờ thập tự đỏ chạy ngang. Họ là ai vậy?
-  Là Hồng thập tự Quốc tế. Họ lo cho dân tị nạn trại NW9, và cũng thường cung cấp gạo cho trại lính chúng tôi để đổi lấy người tị nạn bị "ông lớn" bắt giữ.
-  Vậy sao "ông lớn" các anh không trao đổi chúng tôi ?
-  Thì vừa rồi tôi có nói, khi nào  ông lớn" vui sẽ trao đổi các anh để lấy gạo.
Được anh nói chuyện cởi mở, tôi hỏi thêm :
-  Các anh có phải lính của chế độ Lonnol không ?
-  Phải, nhưng bây giờ là lực lương Khmer Tự do của tướng Sonsann.
-  Tôi cũng có người anh rễ phục vụ trong chế độ Lonnol từ năm 1970. Anh rễ tôi tên Thạch Vọng, cấp bực sau cùng là thiếu tá.
Anh lính Miên ngạc nhiên :
-  Hả? Thiếu tá Thạch Vọng hả? Phải ổng có vợ người Việt không? Bả tên Mùi, có hai con trai.
  Tôi muốn hét lên, nhưng kịp ngăn lại, nói trong xúc động:
-  Đúng rồi. Đúng rồi... Anh chị của tôi đó. Rồi tôi hỏi dồn dập :
- Anh quen với ảnh chỉ hở? Bây giờ ảnh chỉ ở đâu ? Có ở đây không ?
Người lính Miên lắc đầu:
-  Chết hết rồi. Khi Polpot vào Nam Vang, đơn vị do ông Vọng chỉ huy rút vào rừng kháng chiến, đóng trại gần biên giới Thái. Được một thời gian, lính Polpot tấn công vào trại, tiêu diệt tất cả. Ông bà thiếu tá Vọng và hai con trai đều bị chúng giết.
ôi sững sờ trước cái tin buồn bất ngờ này. Niềm hy vọng có ngày anh chị em được trùng phùng đã tan thành mây khói! Tôi bật khóc nức nở.
Tối hôm đó, tôi không ngủ được. Hình ảnh chị Mùi, anh Vọng và hai cháu cứ chập chờn trong đầu tôi. Vậy là hết, anh Phùng, anh Thiện, em Hỷ đã mất vì đất nước, bây giờ thêm tin chị Mùi chết thảm cùng với gia đình, tôi thật sự không còn người thân ruột thịt nào nữa ở trên đời!
Biết được ngoài trại có xe Hồng thập tự thường chạy ngang qua, tôi lập kế hoạch trốn thoát. Sau hơn một tháng bị nhốt, lao động khổ sai, tôi không thể chờ đợi thêm cái ngày được "ông lớn" của trại Khmer Tự do này vui vẻ tha cho.
Một buổi chiều, sau giờ lao động gần con đường lớn ngoài trại, tôi giả vờ đau bụng và xin phép người lính Miên cho tôi đi giải quyết. Người lính Miên đứng chờ. Tôi chui vào một lùm cây rậm. Khi thấy người lính Miên châm thuốc hút và lơ đãng nhìn đi nơi khác, tôi vụt chạy ào ào một quãng xa rồi phóng ra khỏi hàng rào trại. Vài tiếng súng nổ ở phía sau, nhưng tôi đã chạy tới đường lớn cách trại khoảng trăm mét. May mắn thay, từ xa có xe Jeep cắm cờ Hồng thập tự chạy tới. Tôi đứng giữa đường, giơ hai tay lên. Xe ngừng lại trước mặt tôi. Hai người Mỹ xuống xe hỏi:
-  Are you Vietnamese?
Tôi mau mắn trả lời:
-  Yes! I am Vietnamese. I came from Saigon. I looking for freedom. Please help me.
-  OK! We help you.
Tôi mừng rỡ như chết đi sống lại, nhảy lên xe Jeep. Nghe tôi khai bị đói, lạnh trong rừng suốt tám ngày đêm, Hồng thập tự chở tôi vào một bệnh viện dã chiến trong vùng Khmer Tự do, nằm dưỡng bệnh ba ngày. Tôi được cho uống thuốc, ăn cháo và các trái cây bổ dưỡng. Đươc sự che chở và chăm sóc của Hồng thập tự, tôi đã thật sự hồi sinh, nhìn thấy trước mắt một tương lai tươi sáng. Tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng và Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi được chuyển nguy thành an.
Sau khi khỏe mạnh, tôi được Hồng thập tự chở vào trại tị nạn NW9. Bấy giờ là giữa tháng 1/1981. Tôi mừng rơi nước mắt. Cảm ơn Hồng thập tự Quốc tế. Cảm ơn những tấm lòng nhân ái của nhân viên Hồng thập tự và Cao ủy Liên hiệp quốc.


Trại Tị Nạn

Trại NW9 là trại tị nạn dành cho người vượt biên đường bộ. Trại nằm trên lãnh thổ Campuchia nhưng ở sát bờ hào biên giới Thái. Một cây cầu nhỏ bắc ngang từ bờ hào biên giới qua đến cổng trại. Hàng ngày, nhân viên Hồng thập tự từ bên đất Thái chỉ bước vài bước trên cầu nhỏ này là vào trại để làm việc. Ngày đầu được vào trại, lòng rộn ràng vui sướng, tôi hớn hở nhìn những người tị nạn khác đang tập trung ở gần văn phòng trại xem bảng niêm yết tin tức hay thư từ. Đồng bào Việt Nam tôi đây. Tôi có cảm giác thân thiết với tất cả mọi người, luôn miệng cười với người này, người nọ. Tôi được xếp cho một chổ ngủ trong một dãy lều dài thuộc khu dân sự. Vài hôm sau, được vài thanh niên cho biết, nếu là bộ đội Việt cộng tị nạn chính trị sẽ được cứu xét cho đi Mỹ nhanh hơn. Tôi lên văn phòng khai mình đã từng là bộ đội, được chuyển ngay qua một dãy lều trong khu bộ đội. Tất cả bộ đội nơi đây đều từ các đơn vị Việt cộng ở gần biên giới đào ngũ chạy qua Thái.
Dân tị nạn trong trại sinh hoạt rất vui vẻ. Dù việc ăn uống có hơi thiếu thốn, nhất là nước, mỗi người chỉ được bốn lít mỗi ngày để uống và tắm rửa, nhưng ai ai trong trại cũng được yên ổn sống qua ngày. Vài ba tối thì có nhiều người tụ tập liên hoan đưa tiễn người được xuất trại. Chỉ với nước trà và bánh, kẹo đơn sơ, họ mời nhau và đàn ca, nhảy nhót với nhau thật vô tư. Họ an tâm từ nay không còn phải sống với cộng sản nữa. Qua những buổi liên hoan đó, tôi quen thân với một người bạn tên Khúc duy Viễn, cũng là bộ đội tị nạn chính trị.
Tôi viết thư thăm anh chị Hải Vân và các bạn thân ở thương xá Rex như Phuợng, Đức, Minh... Một tháng sau, nhận được thư anh Vân và các bạn, tôi nhảy tưng tưng. Ở trại tị nạn, người ta rất khát khao thư từ người thân. Nhận được thư là người ta vui lắm. Vui nhất là những người có thân nhân ở các nước tự do gửi cho tiền. Nhờ đọc báo Văn nghệ tiền phong, tôi liên lạc được một hội thiện nguyện ở bang Kansas, xin hội làm hồ sơ bảo lãnh. Tháng rưởi sau, tôi nhận được giấy tờ bảo lãnh của bà hội trưởng Mai Liên. Nhờ có hồ sơ bảo lãnh này, sau bốn tháng ở trại NW9, tôi được chuyển đến trại Sikiu, cũng là trại tị nạn đường bộ nhưng ở sâu trong đất Thái.
 Trại Sikiu được chia thành hai khu. Khu gia đình và phụ nữ ở chung. Khu khác dành cho thanh niên độc thân, có hai building giống như nhà tù, bị cách biệt với khu gia đình bằng một vòng rào kẻm gai cao lút đầu. Building 1 gồm nhiều thanh niên ở trại trên một năm vì không có thân nhân bảo lãnh, là building nhà giàu, có bàn đánh ping pong và ai cũng có máy hát nghe nhạc, tiền bạc tiêu xài rủng rỉnh. Đời sống họ sung túc trong hoàn cảnh tị nạn nhờ họ, ai cũng giả tên con gái đăng báo Văn nghệ tiền phong, mục tìm bạn bốn phương, dụ dỗ đàn ông độc thân ở Mỹ gửi tiền, quà cho họ. Tên cô "đực rựa" nào cũng đẹp: Hồng Ngọc, Thu Thảo v.v... Rồi họ gửi hình của thiếu nữ xinh đẹp nào đó mà họ có được, làm cánh đàn ông ở Mỹ chết mê, chết mệt. Thời đó, đàn ông độc thân bên Mỹ chịu cảnh khan hiếm đàn bà,  khao khát tình cảm lắm, nên dốc túi gửi tiền và quà lia chia cho các cô bạn  "đực rựa”  này, hy vọng sẽ bảo lãnh được một cô vợ đẹp như tiên.
Building 2 là building nhà nghèo gồm những bộ đội tị nạn chính trị mới đến như tôi. Đa số là dân bộ đội có gốc rễ ở Sài Gòn hay miền Tây, trong hoàn cảnh tị nạn nghèo rớt mùng tơi vẫn còn tánh ăn chơi. Hàng đêm các chàng ta tụ tập thành từng nhóm ca hát, ôm nhau nhảy đầm, rồi kết bè, kết đảng quánh lộn, thường bị an ninh trại kéo ra ngoài building đánh cho một trận. Tôi cứ an phận sống qua ngày tháng. Ban ngày thì lặng lẽ đi vòng vòng trong khu độc thân, nhìn cảnh sinh hoạt mua bán nơi cổng trại, hoặc trò chuyện với Viễn. Mỗi tối, tôi thui thủi một mình trên cái chiếu trải trên sàn nhà ở một góc building. Đi tìm đời sống tự do, không phải là tự do kết bè đảng để đánh người hay bị người đánh !.
Hai tháng sau, tôi được phái đoàn Mỹ vào trại làm hồ sơ phỏng vấn, chụp hình. Thêm ba tháng rưởi nữa, tôi được chuyển đến trại Phanatnikhom. Được rời trại Sikiu, tôi mừng như người vừa  ở tù ra.
Trại Phanatnikhom là trung tâm tị nạn lớn nhất ở Thái Lan, gồm người vượt biên từ các trại đường bộ và đường biển đã có hồ sơ bảo lãnh của thân nhân hay hội đoàn. Họ được chuyển đến đây để chờ được phái đoàn các nước thứ ba phỏng vấn chính thức, quyết định cho đi định cư hay không. Ở trung tâm này có đủ các sắc dân tị nạn: Việt, Miên, Lào. Vì quá đông nên trại không tổ chức phát cơm canh nấu sẵn cho người tị nạn, mà mỗi tuần phát thực phẩm cho từng tổ độc thân hay từng gia đình để tự nấu ăn. Tổ độc thân tôi có năm thanh niên. Cả tổ lãnh thực phẩm về rồi chia nhau ai muốn nấu ăn sao thì tùy. Sinh hoạt ở trung tâm vui nhộn như trong một thị trấn. Có chợ bán đủ loại hàng hóa và nhiều hàng quán bán thức ăn, thức uống như cơm dĩa, hủ tíu, cà phê, bánh mì, nước sinh tố... Dân tị nạn có thân nhân gửi tiền thì tha hồ vui chơi, tiêu xài ở chợ và các hàng quán này. Phượng, Đức ở thương xá Rex giới thiệu tôi với người bạn của hai cô ở bang California tên Nguyễn ngọc Lưu. Tôi được Lưu gửi cho 50 dollars. Nhờ vậy, thỉnh thoảng tôi cũng vào quán phong lưu chút đỉnh sau gần một năm gian truân khổ ải trong hành trình viễn xứ.
Giữa tháng 11 / 1981, tôi được phái đoàn INS Mỹ chính thức phỏng vấn và chấp thuận cho tôi đi Mỹ. Nhìn hai chữ OK của nhân viên INS phê vào hồ sơ, tôi mừng quá cỡ, cả người nhẹ hẫng như muốn bay lên trời. 

February 28, 2016

ÔNG HOÀNG CƠ MINH THỦ TIÊU CHIẾN HỮU ĐẶNG QUỐC HIỀN VÀ BÁC SĨ NGUYỄN HỮU NHIỀU !


Trong bài nầy có đề cập đến anh Lâm Vĩnh Thuận. Đó là người  anh Hưng ODP có viết "anh Thuận ria mép" trong bài "Làm sao mà quên được". Anh Lâm Vĩnh Thuận tới trại Non Chan, cùng ở tù Para, cùng đi lao đông khổ sai. Anh Thuận và người anh Lâm Vĩnh Đức gia nhập kháng chiến một lần. Cùng đi còn có anh Ngôn Rê. Anh Ngôn Rê là đại diện cho tù Việt Nam trong thời gian đó.

Xin post lên đây để bạn bè cùng biết về số phận những người bạn đã từng ở trại tị nạn vùng biên giới xa xưa, với hy vọng thêm một vết thương sẽ được khép kín

Cảm ơn anh Hưng và anh Tùng đã chia xẻ những thông tin này

******

ÔNG HOÀNG CƠ MINH THỦ TIÊU CHIẾN HỮU ĐẶNG QUỐC HIỀN VÀ BÁC SĨ NGUYỄN HỮU NHIỀU !
Phạm hoàng Tùng / 2016-02-24



Ông Đặng Quốc Hiền là Tướng Tư Lịnh Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến, một cánh tay phải của ông Hoàng Cơ Minh trong khu chiến Thái – Lào. Tướng Đặng Quốc Hiền tên thật là Lê Hồng, một cựu Trung Tá Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa. Ông Lê Hồng cùng ông Hoàng Cơ Minh từ Mỹ về Thái Lan lập khu chiến ở vùng biên giới Thái – Lào vào những ngày đầu tiên của khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1981.Ngày 30/4/1984, ông Lê Hồng được trở về Mỹ trong vị thế đi công tác cho Mặt Trận và nhân tiện đến thăm vợ và các con mới đến Mỹ định cư. Trong chuyến đi này, ông Lê Hồng chắc phải có các cuộc tiếp xúc với những nhân vật trong thượng tầng Mặt Trận mà sau này đã bị ông Hoàng Cơ Minh khai trừ ra khỏi ban lãnh đạo để anh em ông Hoàng Cơ Minh nắm toàn quyền chi phối.

Sau chuyến đi, ông Lê Hồng trở lại khu chiến và có cuộc gặp với ông Hoàng Cơ Minh tại Đài Phát Thanh, do tình cờ, tôi thấy được cuộc nói chuyện giữa ông Minh và ông Hồng. Ông Hoàng Cơ Minh với thái độ rất giận dữ mà tôi chưa từng chứng kiến trong khu chiến, gương mặt ông đỏ lên, lấy tay chém mạnh vào không khí, ngay trước mặt ông Lê Hồng.

Cuối năm 1984, tại Mỹ rất ồn ào về vụ Mặt Trận bể đôi do tranh chấp nội bộ nghiêm trọng giữa ông Phạm Văn Liễu (cựu Đại Tá Việt Nam Cộng Hòa - Tổng Vụ Trưởng Hải Ngoại) và ông Hoàng Cơ Minh về số tiền khổng lồ thu được từ hơn một triệu đồng bào Việt Nam sống trên khắp thế giới. Mấy tháng sau, trong khu chiến, xảy ra cái chết bất ngờ của chiến hữu Lê Hồng.

Tháng 5/1985, tôi được lịnh tham dự khóa học Quân Chính 2, và được xếp ngồi ở bàn đầu bên cạnh ông Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều. Chiến hữu Lê Hồng là giảng viên chính cho khóa học chính trị- quân sự quan trọng này.

Ông Lê Hồng chỉ đứng lớp dạy chúng tôi có một ngày, và vì ngồi gần bục giảng, chính mắt tôi thấy ông còn khỏe mạnh, giọng nói miền Hà Tĩnh rất vang và cứng rắn, không có gì chứng tỏ ông suy yếu.

Vậy mà, buổi sáng hôm sau, khi chúng tôi đến lớp sớm và ngồi đợi buổi học thì một kháng chiến quân trực lớp đến thông báo cho biết: chiến hữu Lê Hồng bị sốt, không đến dạy được. Và liên tiếp mấy ngày sau, chúng tôi cũng nhận được thông báo tạm nghỉ học.

Thế rồi, cũng trong tuần lễ đầu tiên của khóa Quân Chính 2, chúng tôi nhận tin ông Lê Hồng bị sốt nặng, và có nhiều kháng chiến quân thay nhau khiêng võng ông Lê Hồng ra vùng gần tỉnh U Bon của Thái Lan để trị bịnh. Từ Căn Cứ 81, nơi chúng tôi tham dự khóa Quân Chính, để đi ra tới vùng tiếp giáp với tỉnh U Bon-Thái Lan rất xa, và phải đi bộ theo đường mòn trong rừng. Chiến hữu Lê Hồng phải nằm trên võng để các anh em kháng chiến quân thay nhau khiêng đi. Đoạn đường rừng trên 10 cây số.

Sau đó, Mặt Trận thông báo: Chiến hữu Tư Lịnh đã qua đời vì bịnh sốt rét quá nặng, và được chôn cất tại Căn Cứ 84 gần vùng giáp ranh với địa phương có dân Thái sinh sống.

Cá nhân tôi ngay từ lúc ông Lê Hồng bị bịnh thình lình thì đã nghi ngờ, sau đó nghe tin báo ông chết, tôi lại càng không tin. Kết hợp các sự kiện xảy ra trong thượng tầng Mặt Trận từ cuối năm 1984 qua vấn đề không minh bạch tiền bạc, và ông Hoàng Cơ Minh muốn thu tóm quyền hành trong Mặt Trận và Đảng Việt Tân, tôi cho rằng ông Hoàng Cơ Minh đã bí mật thủ tiêu ông Lê Hồng bằng một loại độc dược tiêm vào máu.

Kinh nghiệm sống trong khu chiến cho tôi biết rằng, ít có trường hợp kháng chiến quân chết vì bịnh sốt, đa số là bị tử hình, bắn công khai trước mặt kháng chiến quân hay giết bí mật.

Tôi có đọc trên trang mạng vi.wikipedia đăng các bài viết liên quan đến Mặt Trận, như cuộc đời ông Hoàng Cơ Minh, hay lịch sử thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam thì nhận thấy có một chi tiết không trung thực.

Trang vi.wikipedia viết rằng: "Ngày 24/2/1982, tại chiến khu U-Đông ông họp báo công bố cương lĩnh chính trị và sau đó bắt đầu tổ chức những đợt hành quân Đông tiến, xuyên Lào trở về Việt Nam.

Năm 1985, ông tổ chức cho Đặng Quốc Hiền, Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Kháng chiến dẫn đầu 40 binh sĩ trở về Việt Nam. Toán xâm nhập bị quân Lào chặn đánh, Đặng Quốc Hiền bị giết." (1)

Tôi sống trong khu chiến và biết rằng chiến hữu Lê Hồng không có tham dự bất cứ đợt Đông Tiến nào. Ông Lê Hồng, như có viết trên đây, là do bị đột tử dưới sự sắp xếp của ông Hoàng Cơ Minh. Thời gian này ông Hoàng Cơ Minh đã về sống trong khu chiến, sau khi đi Mỹ giải quyết tranh chấp nghiêm trọng trong nội bộ Mặt Trận với thất bại nặng nề tác hại xấu không thể lường được đối với chủ trương của ông Hoàng Cơ Minh là "Đại Đoàn Kết toàn dân". Biết nói nhưng không biết làm!!!

Sau cái chết bị thủ tiêu bí mật của ông Lê Hồng, khóa Quân Chính 2 được lịnh dời xuống Căn Cứ 83 để tiếp tục học. Căn Cứ 81 ở sát biên giới Lào, Căn Cứ 83 ở sâu trong đất Thái hơn và cũng là nơi ông Hoàng Cơ Minh trú ngụ trong năm 1.985.



Tại đây đã xảy ra thêm một sự kiện mà theo tôi đã dẫn đến việc hành quyết Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều.

Khóa Quân Chính 2 khi dời xuống Căn Cứ 83 vẫn giữ nguyên vị trí ngồi của tất cả các học viên do cấp trên chỉ định, trong đó có vài chiến hữu là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Lúc này, ông Hoàng Cơ Minh trực tiếp giảng dạy các đề tài quân sự và chính trị.

Lớp học là một hội trường lớn có mái lợp bằng tranh, bàn ghế bằng cây và tre rừng, chia làm hai dãy bàn. Tôi ngồi bàn đầu dãy bên phải khi nhìn từ bục giảng của giảng viên nhìn xuống. Cạnh tôi là Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều cũng ngồi bàn đầu, ở dãy bên trái.

Trong khóa học này, chiến hữu Nhiều có hỏi ông Hoàng Cơ Minh một câu rằng: trong trường hợp vị lãnh đạo Mặt Trận quá vãng (chết) thì sẽ sắp xếp nhân sự như thế nào để có người thay thế lãnh đạo đại cuộc?

Vì ngồi gần bục giảng, tôi thấy mặt ông Minh biến sắc trong giây lát. Sau đó ông trả lời nhưng lại không đi thẳng vào câu hỏi do ông Nhiều nêu lên.

Trong thời gian, chiến hữu Tư Lịnh Lê Hồng bị bịnh thình lình và qua đời một cách khó hiểu thì chính Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều là người phụ trách công tác y tế tại Căn Cứ 81 và chịu trách nhiệm chăm sóc cho ông Lê Hồng.

Chính vì thế mà Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều biết rõ nguyên nhân cái chết của ông Lê Hồng. Và việc ông Nhiều đặt câu hỏi với ông Hoàng Cơ Minh trong lớp học thì không phải là vô cớ.

Lớp học bế giảng với một kỳ thi nghiêm chỉnh, bài thi do chính ông Hoàng Cơ Minh ra đề và chấm. Chiến hữu Lâm Vĩnh Thuận, người ở Sóc Trăng - Bạc Liêu, từng là một quân nhân thuộc đơn vị thám báo của Việt Nam Cộng Hòa, đậu Á Khoa. Tôi được chấm đậu Thủ Khoa.

Khoảng hai tháng sau, tôi nghe tin Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều bị bắt trói dẫn đi và rồi nhận án tử hình trong rừng sâu. Trước khi bị chính chiến hữu của mình bắn gục xuống một cái hố được đào giữa rừng, ông Nhiều còn được cho hút một điếu thuốc thơm Samit nổi tiếng của Thái hồi đó. Bác Sĩ Nhiều có thói quen hút thuốc rất nhiều, da nơi hai ngón tay của ông hay cầm điếu thuốc bị ố vàng vì dính nhựa thuốc lâu năm.

Một trong những kháng chiến quân từng sống lâu năm trong khu chiến Thái – Lào và cũng là người may mắn sống sót như tôi qua các đợt Đông Tiến, đó là ông Đào Bá Kế. Ông Kế từ trại tỵ nạn Sikhiu – Thái Lan vào khu chiến sau tôi. Có đảng danh trong Việt Tân là Trần Quang Đô. Trần Quang là lấy theo họ và chữ lót của danh Tướng đời Trần, Trần Quang Khải, trong sử Việt.

Sau 20 năm tù giam, ông Kế về sống với gia đình ở Cần Thơ vài năm. Sau đó, ông từ Cần Thơ chạy qua tỵ nạn tại Thái Lan, vừa mới đây được Việt Tân lo cho đi định cư ở Canada. Ông Kế có thể là một trong những người thực hiện công việc hành hình Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều.

Nhiều người cần nghe lời chứng của ông Đào Bá Kế về việc này. Có bắn ông Nhiều hay không??? Ông Kế nên trình bày trước công luận.

Trong tương lai gần, một khi phiên tòa hình sự được khai diễn để xét xử tội ác khủng bố của Việt Tân thì ông Đào Bá Kế sẽ là một trong các nhân chứng sống phải được tòa triệu tập.


Ngày 24 tháng 2 năm 2016

Phạm Hoàng Tùng.



January 27, 2016

This photo album – the stories behind it – Part 3 (repost)

This photo album was created in 1985. It tells the story of the Vietnamese Land Refugees in the
Thailand-Cambodia border camps, their journey, their living conditions, their hopeless situation and above all, their faith.

The world knew very little about these refugees. Until few of them were lucky enough to be accepted to settle in another country. One fellow refugee, Vu Hoang Quan, was among the very first of them to arrive in his new welcome land, Quebec. He left behind the camps and his dear fellow friends with whom he had shared probably the hardest moments of his life.

And the most precious thing he brought along in his luggage was these photos and a refugee story to be told. This photo album was then created.

It was first presented to sister Andrée Leblanc, a Congrégation de Sainte-Croix (c.s.c) nun. She was
 sister Andrée Leblanc
 also the director of Carrefour Sainte-Croix, dedicated to the cause of the refugees. Sister Leblanc was so touched to learn about the situation of these Vietnamese land refugees that she immediately requested the Carrefour to sponsor some of these refugees to Quebec, Canada.

Hoang Quan then contacted his best refugee friend, Trinh Huy Chuong, who was still in the camp. And this was the beginning of their sponsor operation.During the following three years, dozens of Vietnamese land refugees arrived in Québec. The Carrefour Sainte-Croix opened two welcome houses. One was run by father Pierre Dufour, c.s.c. The other was under the responsibility of brother Jean-Paul Gagnon, c.s.c

father Pierre Dufour
And there was another story with this photo album…

Few months after his arrival in Québec, Hoang Quan heard about two other persons dedicated to help the refugees. He went to meet them, father Pierre Blanchard (parish priest), and brother Roger Gosselin (Ordre des Capucins). The photo album once again touched their heart and convinced them to turn their attention to the land refugees. Fund raisings were organized. Sponsorships were filled and sent. The refugees arrived…

father Thomas Dunleavy
Also from this point, father Thomas Dunleavy, Maryknoll, who was working closely with the refugees in the camp, got involved in this operation. He managed to gather funds and convince his Maryknoll to finance the sponsor operation in Quebec. This precious contribution was especially aimed to help the deserters (bo doi) who had very little chance to be resettled elsewhere.

And there was still another story…

The story of father André Lamothe, jesuit. He spent years working in different refugee camps in South East Asia. In 1983, he came to visit Nongsamet, a Thai border camp for Vietnamese Land Refugees. In 1986, brother Jean-Marie Birsens, jesuit, came to visit Quan in Montreal. Quan learned that father Lamothe was back in Montréal. He came to visit him and together they read and watched each page of the photo album. Father Lamothe remembered very well his short visit to the border camp. And this was when the Jesuit community got involved in the sponsor operation.

father André Lamothe
This photo album – the stories behind it – the real stories of the Vietnamese land refugees

It is our History

It is published here, unadulterated, as an acknowledgement and a tribute to the work of all people who have made it possible for these hundreds of refugees to reach this promised land.






Cuốn album này được anh Vũ Hoàng Quân làm những ngày đầu anh đến định cư tại Montreal năm 1985. Anh làm cuốn sách này là để vận động các tổ chức nhân đạo bảo lảnh cho dân tị nạn còn kẹt lại tại trại tị nạn đường bộ biên giới, nhất là những người bộ đội, khi không nước nào nhìn đến họ.

Canada là niềm hy vọng cuối cùng của nhiều người, khi các cha dòng tên ở nước này vẫn quan tâm cho mọi người, không phân biệt, vì tấm lòng nhân đạo

Anh Vũ Hoàng Quân sau khi đi vận động với các Cha, các Sơ tại các nhà dòng ở Montreal, đã tìm được bảo lảnh cho nhiều người tị nạn. Cùng với sự hơp tác của anh Trịnh Huy Chương vẫn còn ở trại, hai anh đã giúp những người tị nạn đường bộ may mắn rời trại đi định cư tại Montreal và Quebec

Nhữnh hình quý giá trong cuốn album này chưa được đăng đầy đủ lần trước, Xin đăng lại ở đây...Mời các bạn xem





Trang 16

Trang 17

Trang 18

Trang 19

Trang 20

Trang 21

Trang 22

Trang 23

Trang 24

Trang 25







December 09, 2015

Tìm Bạn Trần Đình Hữu

Tìm bạn tên Trần Đình Hữu có anh tên Trần Đình Du trước ở trại Tỵ nạn Site 2 Thailand và đến mỹ khoảng 1989 . Nếu nhận được tin này liên lạc với mình nhé kính mong quí bạn ai biết về Hữu làm ơn giúp cho Thành thật biết ơn .qtrinh2011@gmail.com Tel. 604-789-9250





November 23, 2015

Làm Sao Mà Quên Được (HOÀI CẨM Lê văn Hưng)

Chuyện về trại tị nạn của anh Lê Văn Hưng, được đăng ở đây:

http://hclvh.blogspot.com/2015/11/lam-sao-ma-quen-uoc.html


Tất cả những biến cố trong truyện nầy hoàn toàn dựa trên sự thật, ngay cả tên một số nhân vật, vì những cá nhân đó đã chôn xác nơi rừng sâu xứ người mà thân nhân không biết nơi nào để cải táng, hoặc đã, đang bị tù đày. Tác giả chỉ lồng một ít hư cấu vào câu chuyện tình của nhân vật Dung. Dung cũng là tên khác của một nhân vật có thật. Xin ai đó hãy dừng tay lại, đừng sống trên xương máu của đồng bào mình nữa






Dung quay đầu nhìn bãi đất rộng trước mắt. Mọi người đi lại tấp nập. Tiếng kêu nhau ơi ới. Những lời chúc tụng, những câu dặn dò vang lên không ngớt. Bao bị và ba-lô nằm ngổn ngang trên mặt đất. Những con người và những mái lều tạm làm bằng những tấm plastic xanh, cùng với đồ đoàn lỉnh kỉnh chen chúc nhau dưới ánh nắng gay gắt của mé rừng thưa dưới chân rặng núi Dongrak. Bây giờ thời tiết đã vào mùa khô của năm 1982. Ánh nắng lấp loáng trên cảnh vật trông đến nhức mắt. Hơi nóng khô khan ngùn ngụt bay lên từ mặt đất đỏ nứt nẻ. Nhìn về phía xa, cảnh vật lung linh huyền ảo như trong cơn say. Khí hậu đầu hè nơi biên địa nầy đã làm cho cây cỏ phải trơ trụi, vàng khô. Ngay đến đất đá cũng không còn một giọt nước để mà đổ mồ hôi. Ở hướng trại về phía sau kia, vài cụm khói xám vẫn còn vươn lên, uốn éo một cách mệt nhọc vào không gian xanh ngát không một cụm mây. Hậu quả cuộc pháo kích của Việt Cộng vào trại đêm qua.

Trại đã bị đánh vỡ. Dân chúng lại gánh gồng, lại bồng bế nhau chạy giặc. Giống như những mùa khô trước! Đó là một chu kỳ tự nhiên ở chốn biên giới nầy. Nó cứ thế lặp đi lặp lại mãi. Mọi người, từ lãnh đạo kháng chiến đến người dân, mặc nhiên xem đó là một sinh hoạt ắt có của đời sống họ. Đã chấp nhận tới đây là chấp nhận chạy giặc, là chấp nhận chết chóc, mất mát. Thế thôi. Không một ai bận lòng đưa ra câu hỏi, "Tại sao?" Vì một khi vẫn còn quân kháng chiến chống lại chính phủ Nam-Vang thì nhà cầm quyền nầy, với sự giúp sức của Việt Cộng, vẫn còn truy quét những lực lượng đối kháng. Dân chúng cư ngụ trong vùng nầy vẫn cứ phải đeo mang một kiếp sống đọa đày hết năm này sang năm khác. Trẻ con sinh ra trên những cánh rừng cằn cỗi, sống lê la không tương lai. Còn nói gì đến giáo dục. Cực khổ nhất luôn luôn là mùa khô, vì xe tăng chỉ có thể đánh tới biên giới khi đất đã cứng. Chỉ tội cho dân tị-nạn Việt-Nam, trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết! Có ai ngờ sống trong chiến tranh bao nhiêu năm trong đất nước mình, đến khi bỏ nước ra đi lại phải tiếp tục chạy giặc mỗi mùa khô.

Trên con đường độc đạo chạy dài từ trại vào "tà-nụp" (Bờ đê), mấy chiếc xe buýt đang sắp hàng nối đuôi nhau, quay đầu về phía đất Thái. Nhân viên ICRC bận rộn tíu tít làm nhiệm vụ săn sóc sức khoẻ cho dân tị-nạn chạy giặc, đồng thời điều hành để đưa người lên xe buýt.

"Ông già Nê" đang dùng loa cầm tay, nhắn nhủ bà con ở lại. Âm thanh của tiếng loa hòa lẫn vào tiếng ồn ào của dân chúng, tiếng kêu khóc của trẻ con tạo nên một bầu không khí nôn nao, náo nhiệt. Hôm nay, giữa cơn chạy giặc, số phận dân chúng không biết sẽ về đâu, thì ông già Nê, vị trưởng trại đáng kính người Khmer Krom, nguyên là một Trung Tá của Quân Lực VNCH, mà mọi người đã tự động thăng chức cho ông và thân mật gọi là Colonel, đã cùng lăn lóc với bà con tị nạn trong nhiều năm qua, được đi định cư cùng với một số nhỏ dân trong trại. Dung là một trong những người may mắn đó!

Những cảm xúc trong Dung thật phức tạp. Mừng vui, bùi ngùi lẫn lộn. Cuối cùng thì ngày này, một ngày mà người dân tị-nạn nào cũng mong chờ mòn mõi sau bao năm, đã đến với Dung. Nhưng nàng cũng không khỏi ngăn được xúc động khi phải bỏ lại đàng sau bao nhiêu bạn bè đã chia ngọt xẻ bùi trên bước đường tị-nạn. Dù sao thì những năm tháng sống lầm than cùng với bạn bè nơi biên giới nầy cũng đã là một phần đời của nàng. Hơn nữa, còn một mối tình miễn cưỡng bỏ lại sau lưng.

- "Làm sao mà quên được,

đời qua vút như tên,

Dăm ba hạnh phúc ngắn,

sao quên được mà quên ..."

Dung nhìn về hướng trại. Trại đã bị cháy rụi. Chỉ còn những hoang tàn và mất mát. Những mái tranh xiêu vẹo, nghiêng ngã, bốc khói. Nhưng trong tâm tưởng, Dung vẫn còn thấy những khúc phim của một thời đã sống nơi đây. Như mới ngày hôm qua đây thôi ...

o O o

... Danh đang nằm trên chiếc võng làm bằng bao đựng gạo của UNBRO. Anh vừa mới qua cơn sốt rét rừng. Đầu còn váng vất, mắt còn chao đảo. Miệng lưỡi đắng chát. Từ trên võng, Danh nhìn xuống Hưng đang ăn cơm với muối hột, rồi quay qua Dung bảo:

- Trông thấy anh Hưng ăn cơm ngon lành quá mà mình ăn không nổi.

Dung vỗ về:

- Thì anh ráng ăn miếng cháo em mới nấu cho lại sức đã.

Danh không trả lời, nhắm mắt lại, vẻ mệt mõi, lắc đầu ngao ngán.

Dung cố nén tiếng thở dài. Chờ cho Danh nằm nghỉ, Dung rón rén lấy ít gạo, bỏ vào bao ni-lông và lén đi ra "xầng-cách" (làng của người Miên) xin đổi lấy vài bọc đường cát nhỏ bằng nửa bàn tay. Hi vọng Danh sẽ ăn được cháo với số đường này. Ở trong tù Nong-Chan C3, không phải dễ dàng đi lại bên ngoài được, nhưng vì Dung phụ trách nấu cơm cho tù Việt-Nam nên có phần thoải mái hơn. Hơn nữa, bọn lính "Đờ Bê" (An-ninh) đã biết mặt nàng nên cũng ngó lơ để nàng đi lại. Trong đêm đầu tiên vừa từ bìa rừng Dung được áp tải vào C3 lúc 2 giờ sáng. Chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp hỏi han bạn tù để tìm hiểu về đời sống trong trại như thế nào thì tên lính gác tù đã mở cửa, rọi đèn pin quanh nhà giam tìm kiếm. Sau lưng hắn, lố nhố một bọn Miên mình mẫy xăm vằn vện. Trong đó có tên trưởng "Đờ Bê". Y đảo mắt một vòng rồi giơ tay chỉ vào Dung, và ra hiệu bảo nàng đi:

- À ni! (Con nầy)

Dung luống cuống còn chưa biết ất giáp gì, thì bọn lính ào tới xốc nách nàng đi. Có vài tiếng thì thào của mấy người đàn bà bên cạnh căn dặn:

- Cẩn thận nghe cô!

Linh tính báo cho nàng biết có việc chẳng lành!

Ra tới ngoài, trong đêm rừng tối đen, muỗi bay như một đàn ong, đìều duy nhất Dung còn nhớ là tiếng lách cách của bọn lính Miên khóa cửa tù lại! Màn đêm đã tối, lại càng như đen thêm như thể đồng lõa với đám bất lương mọi rợ.

..........

5 giờ sáng. Vùng biên giới còn đang ngái ngủ. Chim chóc còn yên ấm trong tổ. Sương đêm rơi đẩm ướt lá cây rừng. Gió rừng chốc chốc lại thổi vi vút qua những thân cây trồng cách nhau nửa gang tay để làm vách nhà tù.

Dung được thả về. Đi không nổi. Bọn lính xốc nàng vào tù. Vừa qua cánh cửa là nàng quị xuống, gương mặt tái xanh, những sợi tóc dính bê bết, chằng chịt trên trán. Mấy người đàn bà chạy tới dìu Dung vào góc tối. Một vệt máu tươi kéo dài từ cửa vào tới chỗ Dung nằm, chiếc "xà rông" xốc xếch!

Số phận của Dung cũng là số phận của những cô gái tới sau. Niềm đau của những cây quế Việt-Nam đã bị những tên Mán tên Mường leo trèo làm trò mua vui! Ôi, thân phận của người dân vong quốc sau 30 tháng 4, 1975! Nếu không có cái ngày oan khiên ấy, những người phụ nữ như Dung đã hưởng một cuộc sống yên vui dưới mái gia đình, chớ có đâu phải dãi dầu mưa gió. Vì theo lối chiết tự của chữ Hán, chữ An (yên ổn) được kết hợp bởi bộ Miên nằm phía trên, tượng trưng cho mái nhà, che chở cho người đàn bà, tượng trưng bằng chữ Nữ bên dưới. Theo quan niệm của người xưa, một khi người nữ xa rời mái gia đình thì sẽ khó có được bình yên. Thế mà giờ đây người phụ nữ Việt-Nam lại phải băng rừng, lội suối, trèo non như thế nầy!

Khi thức dậy, không thấy Dung đâu, Danh mới nói với Hưng:

- Chắc em không sống nổi nếu cứ tiếp tục ở đây. Sốt gì mà sốt 2, 3 cử mỗi tháng như thế này. Em chờ MT vào là em xin đi. Tuy biết bỏ Dung lại là không phải, nhưng anh biểu em phải làm sao bây giờ. Anh Hưng biết không, trước khi đi, ở Châu-Đốc, em hứa với Dung là sẽ cùng đi định cư chung với nhau. Nhưng không ngờ tới đây tình trạng lại khó khăn như thế nầy. Cả nửa năm rồi, Hồng Thập Tự bị tụi Miên không cho vào thăm tị-nạn. Thuốc sốt rét để trị bịnh cho tị-nạn Việt-Nam thì Miên lấy hết để cho lính kháng chiến của chúng nó. Anh mới vào chưa bị bịnh như tụi em ở đây lâu, nên chưa nãn chí.

Hưng rán khuyên nhủ Danh:

- Danh phải suy nghĩ cho thật kỹ trước khi quyết định. Mình vượt biên đến đây là kể như đi được nửa đoạn đường rồi, hãy cố gắng thêm một tí. Mục đích mình vượt biên là để ra nước ngoài, sau nầy giúp đỡ gia đình, chứ đâu phải đi kháng chiến. Nếu muốn đi kháng chiến, thì cần gì phải lặn lội tới đây làm gì, mình có thể tìm đường dây ngay tại trong nước. Không phải là mình không yêu nước, nhưng mình có thể giúp đất nước bằng nhiều cách. Hơn nữa, Danh đã hứa hẹn với Dung rồi, bỏ cổ lại một mình trong trại thì tội nghiệp quá! Cổ nặng tình với ông lắm đó!

Danh nhắm mắt im lặng, không nói gì.

Hưng đành xây qua Hào hỏi có muốn uống nước không.

Hào cũng bịnh tiêu chảy cả tuần nay mà không có thuốc, vì như Danh đã nói, thuốc men đã bị bọn Miên tịch thu hết để lo cho quân lính. Hào cao lêu nghêu, bây giờ lại bị bịnh nên trông thật thảm não. Cặp mắt lờ đờ, làn môi nứt nẻ hơi khép để lộ hàm răng đã bị mất 2 cái răng cửa làm cho gương mặt của Hào thiếu hẳn sinh khí. Đuối sức quá, Hào mặc kệ cho số phận, chẳng buồn đi kiếm nước rửa ráy. Anh ta cứ nằm dài dưới đất, hai ống quần dài màu xanh lợt bị phân đen chảy dài xuống, ruồi nhặng bu đầy. Hôi không chịu được.

Hào vào tù trước Hưng, cùng thời với anh Bích chị 10 và cháu Sơn của Hưng, nhưng anh chị của Hưng vì có cháu nhỏ nên được ra bịnh viện lớn trước, rồi vào trại NW 82. Khi NW 82 đóng cửa, tị nạn Việt-Nam được đi định cư hết. Riêng Hào thì bị kẹt lại trong tù C3 cho tới bây giờ.

Trước đó, Hào có cho Hưng biết ba của Hào đang ở Mỹ. Có liên lạc nhưng không hiểu sao không thấy giấy tờ bảo lãnh. Lâu ngày Hào xuống tinh thần, tuyệt vọng vô cùng.

Vài hôm sau, anh em tù Việt-Nam đang đi đào giếng thì lính Miên ra lịnh trở về trại ngay lập tức. Anh em nhìn nhau lo sợ, không biết chuyện gì sẽ xãy ra.

Khi về tới cổng trại, tù Việt-Nam không được vào tù C3 ngay, mà lại được đưa tới một căn nhà khác. Trong đó thấy có đâu 3 hay 4 người Việt-Nam với một ít sách và tài liệu. Anh em được lịnh ngồi xổm thành hàng 3 dưới đất, chờ nghe mấy người Việt-Nam nói chuyện.

Một người đeo kính trắng, dáng dấp hơi thấp, bận áo trắng quần tây tự giới thiệu:

- Xin chào các anh em. Tôi là Đại Úy Lộc, làm việc trong Tổ chức XYZ...

Tiếp theo ông ta nói sơ về tình hình đất nước, cộng sản, thế giới, và về tổ chức của ông được chủ tịch M. lãnh đạo. Trong khi nói ông ta cho chuyền tay một số tài liệu và hình ảnh sinh hoạt trong chiến khu của tổ chức. Rồi kêu gọi anh em tham gia để giải phóng đất nước.

Ông ta còn nhấn mạnh rằng các anh em không tham gia tổ chức bây giờ thì cũng phải tham gia sau nầy, vì anh em không có cơ hội đi định cư đâu. Tổ chức XYZ của chúng tôi đã can thiệp với chính quyền Thái-Lan để giữ tị-nạn tại đây rồi!

Nghe tới đó, một số anh em rúng động bèn ghi tên tham gia. Danh và Hào ở trong số đó. Để anh em "lên tinh thần", ông Lộc còn nói những anh em ghi tên sẽ được phát mỗi người 300 bahts để "liên hoan" trước khi lên đường.

Nói xong, ông ta quay qua Hưng hỏi:

- Còn em thì sao?

Hưng ấp úng :

- Em cần thời gian để suy nghĩ đã.

Và ông bảo số anh em còn lại hãy về suy nghĩ và cho ông biết khi ông trở lại sau để đón tân binh.

Mọi người về tới trại, Dung khóc nức nở sau khi biết Danh quyết định đi kháng chiến:

- Anh nói anh thương tui, hứa sẽ đi định cư chung với nhau, vậy mà bây giờ anh nỡ lòng nào bỏ tui ở lại đây!!

Quả thật, những người ghi tên được phát tiền như đã hứa. Mấy anh em lấy đậu xanh nấu chè để khao những bạn tù còn ở lại. Nấu chè đậu xanh vì ở trong tù thì "đậu xanh làm chuẩn" giống như khi xưa ở Quân trường Thủ Đức thì "cá mối làm chuẩn".

Một tuần sau, gần tối, có một chiếc xe truck của Miên chạy vào trại, đậu trước văn phòng hành chánh. Nhân viên văn phòng của Miên chạy tới tù đọc tên những người được chuyển ra bịnh viện lớn. Dung và mấy người đàn bà, trẻ con nằm trong danh sách. Trước khi đi, Dung dặn dò Danh đủ điều và năn nĩ anh đừng đi Phục Quốc. Danh đành ư hữ cho Dung yên tâm. Hào cũng được đi vì bị bịnh nặng. Anh bận nguyên cái quần dính đầy phân leo lên xe, vẫy tay chào bạn tù còn ở lại.

Sau nầy mới biết, trong khi ở Bịnh viện lớn thì Hào nhận được giấy bảo lãnh của cha mình, nên anh ta đổi ý định không đi Phục Quốc nữa. Đến lúc họ vào để nhận những người đã ghi tên tham gia trước kia, thì Hào bỏ trốn trong cầu tiêu của trại. Nhóm người Phục Quốc vào tận cầu tiêu lôi Hào đẩy lên xe đưa đi! Từ đó không còn ai biết tin tức gì về Hào nữa!

Đêm hôm trước ngày lên đường, theo tâm trạng thông thường thì ai cũng lo lắng, không ít thì nhiều, nhưng có lẽ là rất nhiều, nên anh Đỗ Xuân Trường nhờ anh Musa người Chàm làm giúp một dây "cà tha" (bùa) để đeo quanh thắt lưng cho được yên tâm. Hưng có hỏi Trường thấy cảm giác gì không khi đeo "cà tha", Trường cho biết thấy hơi rùng mình một cái. Sau đó Trường có nhờ Hưng khi qua Mỹ được thì liên lạc với Dì Chi của Trường để bà biết số phận của anh. Sau nầy Hưng có liên lạc Dì Chi bằng thư nhưng không thấy hồi âm. Cùng đi trong số đó có Đỗ Bạch Thố là một thanh niên thấp, tánh tình chất phát hiền lành. Sau nầy cha mẹ, 3 người chị và 2 người anh rể cũng đến được Nong Samet, Nguyễn Tấn Khoẻ và đứa con trai tên Nguyễn Tấn Phát độ 6, 7 tuổi và người em vợ tên Phong (có điều là 2 anh rể, em vợ lại không thuận thảo với nhau tí nào, cứ cải nhau hoài trong tù), hai anh em anh Thuận ria mép, người anh thì đầu hói, trước kia đi Tâm Lý Chiến, có giọng hát khá hay.

Buổi chiều hôm sau, người của Tổ chức XYZ vào trại để đón lính mới. Họ luôn luôn chờ các Volags (Các tổ chức thiện nguyện như MSF, ICRC, ARC, CARE, COR ...) rời khỏi trại để trở về thị trấn Thái rồi, thì họ mới xuất hiện vào trại. Họ không muốn đối đầu với các tổ chức đó, nhất là ICRC, vì ICRC nắm danh sách, quân số tị-nạn. ICRC cần được biết rõ ràng lý do mỗi khi quân số tăng hoặc giảm. Nhóm của Danh đã chia tay các bạn tù để lên đường trong buổi chiều chập choạng hôm ấy. Đó là đợt tham gia kháng chiến đầu tiên nên ai cũng bịn rịn, hơn nữa bạn bè dư biết là một khi dấn thân vào lửa đạn thì may ít rủi nhiều. Hi vọng gặp lại nhau thật là mong manh!

Vùng biên giới lại đi vào mùa khô. Đây là mùa mà cộng sản Việt-Nam hoạt động mạnh. Chúng thường xua quân qua biên giới, tới tận lằn ranh của Thai-Lan để truy đuổi quân kháng chiến của Khmer đỏ, của Son Sann hay của Sihanouk. Mỗi phe chiếm cứ một vùng dọc biên giới Thai-Khmer, có khi sát cạnh nhau. Có một lần, một tù nhân bị giam trong nhà tù C3 Nong-Chan của Son Sann, sát bên nhà tù giam người Việt. Ban đêm anh ta trốn tù, nhảy qua một cái mương và thoát qua bên lãnh thổ của Sihanouk. Khoẻ re.

Mùa khô năm nay cũng không ngoài thông lệ ấy. Ban đêm Hưng áp tai xuống đất và nghe rõ tiếng xe tăng của VC đang di chuyển.

Có lần, bọn Miên đem chiến lợi phẩm về triển lãm dưới trụ cờ. Mìn, súng ống, đạn dược, lựu đạn. Có cả mấy xác chết nữa. Những xác nầy chỉ bận quần đùi, đầu tóc cắt ngắn. Được vài hôm, những cái xác ấy chương lên, ruồi nhặng bay vo ve như ong. Bọn Miên vào tù Việt-Nam trưng dụng nhân công đi chôn. Chúng chọn những tay lực lưỡng, nhưng bất chợt chúng trông thấy Hưng, tên chỉ huy kêu lên:

- À tút nú! (Thằng nhỏ đó!)

Mấy người xầm xì:

- Chắc tụi nó thấy mầy trắng nên nó ghét đó.

Ra đến nơi, ai nấy không chịu nỗi mùi hôi thối, nhưng đành phải nghiến răng xông vào làm việc. Muốn tránh cũng không được.

Thấy cái xác không to lắm nhưng không hiểu sao nó nặng ơi là nặng. 4 người lo 2 chân 2 tay mà vẫn cứ ì ạch vì cái đầu cứ oặt ẹo mãi. Một lần nữa sao quả tạ lại rơi vào Hưng. Bọn Miên xỉ tay bảo Hưng phải "take care" cái đầu của tử thi. Là học sinh, lần đầu tiên ra đời, phải chạm tay vào tử thi, Hưng thấy nó lạnh toát một cách kỳ dị. Không phải cái lạnh như nước đá, nhưng là cái lạnh ma quái, làm cho mình phải ớn xương sống! Cả 5 người hô 1, 2, 3 rồi đồng loạt nhấc lên. Bỗng nghe có tiếng "bực, bực, ộc, ộc ..." 5 người đưa mắt nhìn nhau. Thì ra gân cốt của xác chết bị đứt, và máu đông cục trong lồng ngực rơi ra khỏi vết thương xuyên từ phía trước ra sau lưng nên phát ra tiếng động như thế. Mấy cục máu tím bầm, trông như huyết heo, to bằng cái chén nhỏ rơi ra nằm trên đất.

Cả bọn cố hết sức mà vẫn không nhấc hổng cái xác chết lên được, nên cứ phải khiêng là đà trên ngọn cỏ. Tới nơi phải đào hố ngoài ruộng nước. Cái hố đào vội thành ra hơi nhỏ, vậy mà phải chôn tréo trả cả 2 cái xác vào một hố. Tay chân họ cứ thò ra trên mặt đất. Mấy anh em phải thu xếp cho tay chân tử thi xếp gọn vào trong hố, chứ không dám đứng trên xác mà dậm xuống như bọn VC đã làm khi đấu tố bà Cát Hanh Long trontg thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất!

Vừa chôn xong, thì nghe tiếng la to:

- Pà Rặng mo! (Pháp tới!)

Anh em nhìn ra đường thì thấy xe có cắm cờ Hồng Thập Tự đang lái về hướng trại tù. Tim mọi người như ngừng đập, vì vui mừng, đã hơn nửa năm rồi ICRC không được vào thăm tù. Như vậy có nghĩa là vẫn còn hi vọng thoát ra khỏi cái địa ngục nầy. Thế là bọn Miên ra lệnh cho tù phải gấp rút quay lại C3.

Từ đó tình hình chiến sự cứ gia tăng mãi lên. Tù Việt-Nam lo sợ, hễ gặp mấy người Miên là hỏi thăm tin tức. Tuy đây là lãnh thổ của Son Sann, nhưng trăm lần như một, mỗi khi được hỏi đến thì những người tù Miên đều bảo:

- Ọt ây tê! (Không sao đâu!)

Họ nói đừng lo, vì "Yuôn" (Người VN, ở đây họ ám chỉ Việt-Cọng) không địch lại nổi Tà Mok đâu, ổng giỏi lắm. Tà Mok là viên chỉ huy của Khmer Đỏ.

Những ngày sắp thất thủ, tù Việt-Nam bị khóa cứng, không được đi ra ngoài. Đêm cuối cùng lính Miên rút lui trước hỏa lực của VC. Nằm trong tù mà nghe bọn Miên vẫn cười giỡn trên đường thoái quân để di chuyển vào sát biên giới Thái Lan, bỏ lại đàng sau trại Nong-Chan và tù C3. Chiến tranh xem ra giống như một trò đùa ở vùng đất nầy! Đến gần sáng, thì căn cứ Nong-Chan bị đánh vỡ. Mạnh ai nấy chạy. Hỗn quan, hỗn quân. Tù C3 tự phá khóa dây kẽm gai và chạy trà trộn với quân và dân Miên. Cả một khoảng đồng trống đầy nắng và bụi bị dày xéo bởi hàng ngàn bàn chân của "bá tánh" Nong-Chan. Cảnh tượng chạy loạn ấy thật không khác câu chuyện Triệu Tử Long đoạt ấu chúa thời Tam Quốc bên Tàu.

"Trăm họ" tạm dừng chân ở O Bychon chừng 1 tuần rồi lại lên đường, vì chiến tranh vẫn đeo sát gót. Hưng vừa đi vừa nói chuyện với Francois, ICRC Delegate, trên đường đến căn lều tạm của ông già Lâm-Nê. Lần đầu tiên Hưng gặp ông. Đó là một người đàn ông tóc ngắn, cương nghị rắn rỏi, vẻ dày dạn nắng gió. Khát nước quá vì vừa mới chạy giặc tới, Hưng xin ông một ca nước, ông dịu dàng bảo:

- Uống đi con. Uống cho no đi.

Mấy ngày sau, đoàn người lại băng qua khoảng rừng thưa bị cháy loang lỗ. Lúc nầy Hồng Thập Tự đã có mặt lội rừng chung với dân để hướng dẫn mọi người đi vào Ang Sila, một khoảnh rừng nằm trong lãnh thổ Thái, mới được khai hoang, lấy chỗ cho dân Miên và VN tạm dựng lều trong khi chờ chiến tranh lắng dịu để tái ổn định.

Plastic xanh được phân phối để dân tạm cất lều trên khoảng đất mới. Lều ông già Nê được cất bên 2 gốc cây lớn để ông có thể giăng võng. Một hôm đang đứng trong lều của ông thì Hưng nghe có người chạy tới báo cáo với ông là nhóm người Phục Quốc muốn gặp ông để nói chuyện. Hưng lánh mặt. Sau một lúc nói chuyện thì họ cáo từ. Không biết nội dung câu chuyện như thế nào. Suốt thời gian còn lại ở Ang Sila không thấy họ tới nữa.

Vào cuối mùa khô, chiến sự trở nên yên lắng. Dân tị-nạn Việt-Nam được đưa về trại Nong Samet cất kế bên NW 82 ngày xưa. Tuy nói là ngày xưa, nhưng thực ra chỉ mới có mấy tháng kể từ ngày NW 82 được giải quyết đi định cư. Nỗi thống khổ làm cho con người ta cảm thấy thời gian như kéo dài lê thê! Nơi platform của NW 82 bây giờ chỉ còn lại rác rến, những cọc lều gãy nát, rải rác trên nền trại là những lon cá mòi nằm lăn lóc. Trông thật tiêu điều và buồn bã. Mới mấy tháng trước nơi nầy còn đông đúc, chen chúc những mãnh đời rách nát. Đông nhưng không vui! Dầu sao cảnh tượng trước mắt cũng làm dâng lên trong lòng người đến sau một nỗi buồn "hoài cổ" nếu có thể gọi như thế! Nhất là những người có thân nhân như Hưng đã sống ở NW 82. Rời khỏi nước chỉ cách nhau 4 tháng, mà 2 anh em định cư cách nhau 5, 6 năm.

Sau khi dân tị-nạn ổn định nơi trại mới nầy, một lần nữa Lực lượng Phục Quốc lại xuất hiện. Đêm hôm đó, họ đem cả máy phát điện, TV để chiếu phim về tổ chức của họ, về hoạt động trong các mật khu ... Lần đầu tiên dân tị-nạn được thấy ông chủ tịch, quấn khăn rằn, đọc diễn văn. Trông ông thật giống Hồ Chí Minh. Phải công nhận ông có dáng khắc khổ, giọng nói trầm ấm của một nhà lãnh đạo. Rất thuyết phục. Đồng thời họ cho chuyền tay những ấn bản của tổ chức, in trên bìa dày rất đẹp. Về khuya, sắp hết buổi vận động, họ cho thu hồi những quyển sách ấy. Sau khi kiểm điểm thấy thất thoát một ít sách. Thế là lính Thái đi cùng với họ ra sức lục soát, đe dọa dân trong trại để tìm cho ra. Nhưng phải tốn thời gian rất lâu mới tìm thấy được. Thì ra ai đó đã vất số sách ấy qua hàng rào ra đám cỏ mọc hoang bên ngoài trại.

Có một điều không biết đáng buồn hay đáng cười. Một ngày nọ, không hẹn mà nên, có 2 lực lượng phục quốc cùng xuất hiện: Lực lượng của anh Trần văn Bá và Tổ chức XYZ.

Hai bên va chạm dữ dội. Dân chúng bu đông nghẹt. Mấy ông cựu quân nhân thấy vậy lên tiếng:

- Mấy ông kêu gọi đi kháng chiến để cứu nước, mà chưa chi mới gặp nhau ở đây đã cãi cọ, chia rẽ như thế nầy thì còn ra thể thống gì nữa. Thử hỏi ai còn dám tin tưởng ở mấy ông!

Cuối cùng hai tổ chức tránh đụng độ tại trại nên thách thức nhau, hẹn ngày giờ "đối thọi" trên Bangkok.

Mãi sau nầy hay tin Trần văn Bá hi sinh trong quốc nội, mọi người mới xót thương cho anh. Một người trẻ đủ điều kiện sống một đời sống yên vui, hạnh phúc thế mà đã dám hi sinh tất cả cho non sông. Đến bây giờ thanh danh vẫn chưa hề bị vấy bẩn như những tổ chức khác!

Trong lần tuyển quân cuối cùng, họ thuyết phục được vài người đi. Số người đi ít hơn so với những lần trước là vì bây giờ không phải như lúc còn ở trong tay người Miên dân ta bị hãm hiếp, lao động, có khi còn bị đập đầu giết bỏ nữa. Vì đời sống lúc đó giống như địa ngục như vậy nên dân tị nạn mới tìm cách thoát ra, và giải pháp duy nhất là tham gia Kháng Chiến. Tham gia kháng chiến thì chưa biết đi tới đâu, nhưng ít ra trước mắt cũng ra được khỏi nơi chốn nhục nhằn nầy cái đã. Phải thẳng thắn mà nói, lúc đó lý tưởng chưa phải là động lực thực sự để anh em tị-nạn gia nhập. Tâm trạng nhắm mắt đưa chân nầy cũng giống như cái liều mạng của Bút Tre:

- "Hàng đầu không biết đi đâu,

Đi đâu không biết, hàng đầu cứ đi."

Còn bây giờ thì dân tị nạn đã được ICRC bảo vệ nên mọi người không còn sợ bị ép buộc phải tham gia tổ chức nữa, do đó số người gia nhập không đáng kể.

Mấy người nầy được đưa đi huấn luyện, không biết ở đâu, nhưng một thời gian sau được escort về trở lại thăm trại, có lẽ để tuyên truyền. Trong khi các chức sắc của tổ chức ngồi trên văn phòng trại để nói chuyện với Ban Đại diện trại thì các kháng chiến quân được tự do đi xuống các lều để thăm và nói chuyện với mọi người. Hưng và Dung có quen với một kháng chiến quân, nên 2 người bèn lân la tới hỏi thăm sức khoẻ, luôn tiện để Dung dò la tin tức về Danh. Trông anh ốm yếu chứ không khoẻ mạnh lắm. Chờ khi mọi người đi bớt, anh nầy mới nói nhỏ với Hưng:

- Anh Hưng đừng có đi nghe. Vô đó mới biết. Họ nói nghe hay vậy chớ tụi em ăn uống thiếu thốn lắm. Toàn ăn cá khô thôi, mà cá để lâu quá nên bị mục, ăn đắng ngét. Gạo cũng bị mục."

Rồi anh thì thào:

- Chị Dung đừng cho ai biết, em chỉ nói riêng với chị thôi. Chị đừng buồn. Anh Danh bị họ bắn chết rồi vì tìm đường đi trốn!

Dung khóc ràn rụa!

Tai vách mạch rừng! Có lẽ tổ chức biết được anh nầy đã tiết lộ những điều bất lợi cho tổ chức. Cho nên sau đó ít lâu, họ lại vào trại, vẫn dẫn theo anh kháng chiến quân đó. Lần nầy anh trông hồng hào, khỏe mạnh. Quân phục mới toanh được ủi hồ láng coóng. Vừa mới thấy Hưng, anh đã vui vẻ khoe:

- Anh biết không, tụi em sướng lắm. Sáng thức dậy ăn điểm tâm xong là vào lớp học tập. Sau đó nghỉ trưa. Chiều được chơi thể thao. Ông Thầy thương tụi em lắm. Lâu lâu cho tiền để tụi em tiêu vặt.

Hưng tò mò:

- Ông Thầy là ai vậy?

- Anh không biết sao, tụi em gọi chủ tịch M. là ông Thầy đó. Trời ơi, ổng thương tụi em lắm!

....

Đó lần cuối cùng dân tị-nạn được thấy anh kháng chiến quân ấy, và cũng là lần sau hết Dung được biết về cái chết bi thảm của người mình yêu!

Sau lần đó họ không còn vào hẳn trong trại nữa.

Nhưng mọi chuyện chưa phải là hết. Tổ chức ZYZ không bỏ cuộc một cách dễ dàng như thế!

Có một lần, có lẽ vì thấy cách thức mộ quân như trước không còn "ăn khách" nữa, nên lần này họ thay đổi "chiến thuật". Họ đút lót lính Task Forve 80 của Thái để bọn này vào Trại, sau khi các tổ chức thiện nguyện ra về thị trấn bên trong lãnh thổ Thái hết. Bọn Thái gặp ban đại diện, nói cần một số thanh niên khoẻ mạnh để đi đắp một đoạn đường bị hư, họ sẽ được trả lương bằng gạo và cá mòi hộp dẹp. Mỗi tháng UNBRO chở thực phẩm đến trại để nuôi dân tị-nạn bằng gạo, muối hột, đậu xanh, dầu ăn, cá khô hoặc cá mòi hộp cao. Tháng sau, họ lại cho dân "đổi món" bằng cá mòi, cá khô, dầu ăn, đậu xanh, muối hột, gạo. Nói đùa cho "đời bớt khổ" chứ quanh năm suốt tháng dân cứ phải theo một menu duy nhất. Sau nầy nhiều người tị nạn ra đến nước ngoài rồi, mỗi khi nghĩ đến cá mòi hộp là họ rùng mình. Món cá mòi hộp dẹp là xa xí phẩm, chỉ có dân Miên buôn bán lặt vặt hoặc "lục thum" (ông lớn) mới có khả năng rớ tới. Thế cho nên, nghe như vậy đám thanh niên liền phóng lên xe truck của lính Thái ngay lập tức. Bọn Thái chở họ ra tới ngã ba gần "tà nụp" liền quay đầu xe lại hướng về một chiếc xe van mở cửa đậu sẵn đó tự bao giờ. Một số người nhảy ra khỏi chiếc van đó, chạy tới bao vây đám thanh niên và định lùa họ vào chiếc van. Lúc ấy dân tị nạn mới nhận ra họ là những người Phục Quốc đã từng vào trại lúc trước, nên bỏ chạy tán loạn, mỗi người mỗi ngả, miễn sao thoát thân được thì thôi. Có người chạy sút cả dép, mất toi cả một gia tài của đời tị nạn. Bọn lính Thái khoanh tay cười ha hả! Khi về đến trại, họ thở không ra hơi. Vừa thở hào hển vừa tường thuật lại diễn tiến của sự việc cho ban đại diện và bà con nghe. Nhiều người vừa kể vừa cười ngặc nghẽo, y như vừa mới được đi dự một cuộc vui nào về.

o 0 o

Dung nghe có tiếng cô bạn đã ngồi trên xe buýt gọi. Nàng như vừa được đánh thức khỏi giấc mơ dài. Quay lại thấy cô bạn vẫy tay lia lịa, ra dấu xe sắp chuyển bánh.

Nàng xách vội chiếc xách tay nhỏ lên. Gia tài của cả một đời tị-nạn. Ngày rời xa đất nước, người dẫn đường không cho Dung đem gì theo, mà chỉ được đi tay không cho khỏi bị lộ. Nhưng lúc đó, trong hồn nàng chứa đầy ắp một niềm ước mơ tươi sáng cho tương lai. Còn bây giờ, ngày lên đường đi định cư, nàng có được một xách tay nhỏ mang theo, nhưng đắng cay thay, tâm hồn tội nghiệp của nàng đã trống vắng, vỡ nát tang thương! Dung đi vội về chiếc xe.

Xe bắt đầu lăn bánh. Cô gái ngoái cổ lại, cố thu vào tâm trí hình ảnh cuối cùng của vùng biên giới Thái-Miên, nơi nàng đã để lại đời con gái thơ ngây và cũng là nơi nàng đã chôn sâu mối tình trắc trở bi thương. Quang cảnh hoang tàn của trại lùi xa dần ... xa dần ... trong đám bụi mù đang bốc lên sau xe. Mắt nàng mờ đi. Vì bụi, hay vì nước mắt. Hay vì cả hai! Dung không biết nữa.

1 giờ đêm
Garden Grove, Nov. 21, 2015

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Best WordPress Themes