December 26, 2018

Peter Trinh‎ : Thăm Cha Tom Dunleavy

 Post from Facebook của Peter Trinh (Chương).




“Have a blessed and Merry Christmas “ to all of VNLR, đó là lời nhắn của Cha Tom hôm qua ....
Cha hỏi có bao nhiêu sẽ đến thăm Cha vào ngày Chúa Nhật mồng 6 tháng giêng 2019 (chỉ còn hai tuần nữa thôi).... Chương chỉ nói “ Dạ chắc cỡ 20 người thôi” ! Thế mà Cha xu xuê “ Ôi tuyệt vời và may mắn cho Cha quá” .... trong khi đó mình thì nghĩ ngược lại, hơn 30 năm Cha không ngại lần mò tìm đến các trại cấm của VNLR dọc theo biên giới từ Phnom Chat của Khmer đỏ , Nong Chan ,Nong Sa met của KPLNP của nhóm Son Sann , và MOLINAKA của hoàng thân Sihanouk, bất chấp những nguy hiểm, để từ đó Cha báo cho các đệ tam quốc gia và các tổ chức nhân đạo vào giúp đỡ cho hàng chục ngàn người VNLR về bến bờ Tự do... nhất là những người không may mắn hay thậm chí không có cơ hội định cư ... trong đó phải nhắn tới nhóm gọi là “ chú cùi” từ Trại tù binh Âranyaprathet ( gọi tắt là Aran Camp) đến các trại Đongrek site two ... chính cha Tom là người connection cho các cha và các hội đoàn khác tại Hoa kỳ hay Canada và giúp đỡ về tài chánh để sponsorship hoàn thành, ngoài ra Cha Tom là Cha đầu tiên vào các trại biên giới và sau đó dẫn các cha khác như Cha Pierre Ceyrac , John Bingham, Jean Houlmann ,... tiếp tục các công tác cứu trợ khác...cha Tom cũng còn biết đến trong cộng đồng Khamer Krom, Chàm , Hoa ... dân tộc thiểu số vùng núi như Ra đê , Ê đê, H’mong....Lào và CambodiA .... nhưng có lẽ ngài cũng có một cái gì thiên vị cho VNLR bỡi lẽ chúng ta là những người khốn khổ nhất ...

Hôm nay , nắng ngã xế chiều , cái bóng người Cha già đó vẫn còn hiện hữu giữa chúng ta.... và ngài lúc nào cùng nâng niu tình cảm của mình cho dù biết rằng con cái ( và cháu chít) của ngài , ai ai cũng yên bề gia thất.... những ngày cuối cùng của ngài trong khuôn viên của Tu viện Maryknoll Tại New York tưởng chừng như có thể làm cho cha dừng lại để gọi là “hưu trí” “về hưu” “ dưỡng già” như chúng ta nghĩ.... hoàn toàn khác ngược lại cái nghịch lý đó... Khi hỏi “thưa cha , cha có cần gì không?? “ ... câu trả lời của Cha , xin tạm gác tại đây.... những ace nào về thăm cha được sẽ chia sẽ sau....

Cuối cùng , cha chỉ nhắn lại như sau “ con nói với mọi người “ lunch will be on me and I will take you all for the tour”....

Mình chỉ xin cha một điều, nếu được xin cha blessing for each of us ....

He said “yes I will”....

Hope to see you there ! Sunday 6 th of January, 2019 beginning from 10:00am all day, shine, rain or snow ....

December 15, 2018

TIN MỪNG....TIN MỪNG cho Gia đình Trại Tỵ nạn đường bộ VNLR

Post từ Facebook của anh Peter Chương:

Thân gởi ACE trại VNLR Hôm nay Chương có nói chuyện qua phone với Cha Tom, Cha đã trở về Hoa Kỳ được vài tháng rồi. Cha nay đã 88 tuổi rồi, và "Bị" bất buộc phải vè hưu....
Hiện nay Cha tịnh dưỡng tại nhà dòng chính của MARYKNOLL, tại Ossining , Upper state of New York.
Hỏi về sức khỏe của Cha, thì ngài kể với giọng cũng nghe còn sỏi lắm, nhưng yếu hơn trước rất nhiều....Cha cho biết, Cha bị mờ mắt , cha bị Leukemia , cao huyết áp và suy thận....tóm lại ở tuổi 88 của Cha...nếu không bịnh thì đó là chuyện lạ....Chương có xin phép Cha một cuối tuần nào đó thật gần để có thể ghé nhà dòng thăm Cha....Cha cho biết trước Giáng sinh thì nhà dòng rất bề bộn, và cha cũng ngại cho mình đi lại những ngày này thật là khó khăn....
Vì muốn đi thăm Cha càng sớm càng tốt...cho nên Ngài đã cho mình ghé thăm ngài vào Chúa nhật mồng 6 tháng Giêng sắp tới này....
Dù biết ngày 6 January 2019 thật là cận kề....Nhưng với tình hình sức khỏe của Cha hiện nay...Thiết nghĩ, ai có thể đi thăm Cha được thì nên đi...vả lại, weekend đó, lũ trẻ cũng chưa đi học lại.....
Nếu ACE nào muốn thăm Cha, xin cho Chương biết để tiện sắp xếp với nhà dòng và báo cho Cha biết.
Nhà dòng cách New york city khoảng 40 km phía bắc , tọa lạc trên một đồi rất đẹp... có nơi cho chúng ta tụ họp gặp mặt lại Cha.
Vì chuyến thăm nay quá đột ngột và last minute, xin ACE tự túc. Mọi chi tiết trong ngày hôm đó , Chương sẽ báo nay mai.
Từ Montreal chạy xe xuống nhà dòng mất khoảng 5-6 tiếng.
Từ Toronto,8 tiếng. Boston 3 tiếng rưỡi, Washington DC 4 tiếng rưỡi....
Từ các nơi khác, bằng haǹg không , thì phi trường New york là tốt nhất, sau đó lấy xe lửa train , mất khoảng 35 phút...

Cha Tom tại sãnh đường Hàn quốc trong khuôn viên của nhà dòng Maryknoll, New York.....

Xin báo cho ACE xa gần như vậy...
ACE nào có thắc mắc gì, xin liên lạc với Chương nghe phone 514-893-5268 , hay email chuongVNLR@gmail.com
Hy vọng sẽ gặp lại và cùng nhau thăm viếng lúc Cha còn sống....
Xin lưu ý, dân Gia Nã Đại cần phải có Passport mới qua "tà núp" của Mỹ nghe... :
Tưởng cũng nên nhắc lại rầng Cha TOM là Cha duy nhất còn sống trong các Cha đã từng đến trại biên giới Thái-Cambodia để giúp đồng bào mình.....Tất cả đã về với Chúa rồi...chỉ còn Cha Tom thôi.....cho nên xin ACE bỏ chút thì giờ ghé thăm cha lúc này.... THANK YOU

Cha Tom 2015 tại ngôi nhà nguyện trong nhà dòng Maryknoll, Newyork...nơi mà Ngài đã thụ phong linh mục 1 tuẩn sau khi ngày Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản bắc việt 30 tháng tư 1975... theo cha , Âu đây cũng là cái duyên của Cha , mà những năm sau đó Cha đã được bề trên trao cho sứ mệnh cứu những bộ nhân tỵ nạn Việt nam dọc theo hành lang tự do Đông dương...

December 12, 2018

Hình ảnh trại tị nạn đường bộ ngày xưa

Những hình ảnh này do hai cha Roger và Pierre Blanchard chụp, được post ở trang Facebook của anh Peter Chương.
Xin cảm ơn 2 cha và Chương đã gìn giử chia xẻ những hình ảnh quý báu này.



















September 09, 2018

Hội Ngộ Hướng Đạo Trại Tị Nạm Biên Giới

Vài hình ảnh của 17 anh em Hướng Đạo Trần Hưng Đạo ngày xưa của trại tị nạn đường bộ Việt Nam gặp gở nhau tại Westminster, California, September 7-9, 2018























August 29, 2018

Hồi Ký “VỀ MỘT CUỘC RA ĐI" - Giáo sư Trịnh xuân Đính: Lên Bangkok lấy Tàu đi Galăng


Lên Bangkok lấy Tàu đi Galăng

Ngày mười tháng tám tôi lên xe buýt đi Băng Cốc, ở lại đó ba ngày, rồi lên tầu lớn cùng cả năm bẩy trăm người đi đảo Ga Lăng ở ngoài khơi biển Nam Dương. Từ Băng Cốc đến Galăng, phải chịu năm ngày, bốn đêm khốn khổ trên con tàu chạy như con rùa, chẳng khác nào chúng tôi đi vượt biển. Người người nằm la liệt trên boong tầu, ăn ngủ ngay tại đó, ốm đau nằm rên khừ khừ cũng tại đó, ngày đêm tại một nơi, chẳng khác nào hồi di cư từ bắc vào nam năm năm mươi tư, có khác chăng là không đi loại tầu há mồm, và dân tị nạn không có nhiều đồ mang theo như dân di cư.
Chúng tôi đến đến Ga lăng ngày mười tám tháng tám, nơi đây chúng tôi làm thủ tuc chót trước khi đi định cư tại Hoa Kỳ. Tại đó tôi được cho số căn cước mới là T#282616, và tạm trú tại Barrack 193, room 7, Zone E, RPC Galang 2.
Trại Ga lăng có nhiều cảnh thiên nhiên rất đẹp, có núi, có bờ biển với những bãi cát trắng, sóng nhấp nhô làm cho tôi nhớ đến Vũng Tầu hay Đồ Sơn, có bến tàu nơi những ca-nô chạy cả trăm cây số giờ đưa những nhân viên các tổ chức quốc tế giúp người tị nạn từ Nam Dương hay Tân Gia Ba tới lui nơi này.
Nhớ đến bến tầu ấy, tôi nhớ đến những hình ảnh không vui của những ghe thuyền mà dân vượt biển đã dùng để đến nơi đây, những ghe thuyền đó nay nằm chết ở đấy, và sẽ còn là những chứng tích lịch sử đấu tranh của những con người đã ra đi vì cộng sản. Bao nhiêu người đến được nơi đây rồi chết nơi đây? Chỉ cần đếm những nấm mồ chôn cất tại nghĩa địa trên hòn đảo này, cái nghiã điạ mang danh Ga lăng 3 thì biết. Bởi vì hòn đảo này được chia ra làm ba khu vực, khu vực một cho những kẻ vượt biển đi thẳng đến Nam Dương lúc đó, còn phải chờ được phỏng vấn, còn nhiều lo âu; khu vực hai cho những người đang hạnh phúc như tôi, đã được chấp nhận đi Mỹ, đến đây để chờ ngày đi; và khu vực ba, như đã vừa kể ở trên, cho những kẻ đã cố công đi đến đây để rồi ở lại đây vĩnh viển. Kể ra chết và được chôn ở cái nơi khá thơ mộng này cũng sướng, đó là một đặc ân của trời cho, còn hơn những ai chết bờ chết bụi trong rừng thiêng Kămpuchia, hay chết một cách khốn nạn ngoài biển khơi để thân mình làm mồi cho cá.

Ga lăng hai có những căn nhà gổ hai từng tương đối khang trang cho dân tị nạn, và tôi đã được cấp cho một căn phòng ở từng trên, có cây cầu thang gổ để đi lên đi xuống. Tôi hay ngồi trên nấc thang chót ngắm cảnh sinh hoạt của trại, hay nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây nhớ đến gia đình, và các bạn bè còn ở lại Saigon. Tôi đã phải ở nơi đó gần hai tháng, hai tháng mà tôi có cảm tưởng như hai năm, vì nay thủ tục đã xong hết, không còn gì để mà còn phải lo lắng hay theo dõi.
Những lúc không biết làm gì, tôi đi sang bên ga lăng một thăm ngôi chùa Phật Giáo có bức tượng rất to và đẹp, và tôi ngồi trên cái đu cột trên cành cây ngoài sân, trước lối vào, để ngửi mùi hương và suy nghĩ về niềm tin và con người.

Những buổi chiều mát ở Ga lăng, tôi thường đi dạo trên những con đường sỏi đá chạy từ khu vực một đến khu vực hai, đi hàng mấy cây số để đến những quán lá bán cá phê ngồi nghe nhạc vàng, nhớ về quê hương nay đã xa cách. Ôi những buổi chiều buồn day dứt ấy, nhưng lại đáng sống, đáng hưởng, những buổi chiều mang bao ý nghiã của cuộc sống của con người, trải qua bao đắng cay mới đến được bến bờ này, nay ngồi hưởng những phút suy tư trong tiếng nhạc tiếng hát, bên hương vị của tách cà phê và những điếu thuốc. Tôi đả từng ngồi như thế, đôi khi với những người bạn mới, nhưng thường thì là một mình, bởi vì mình đâu có đến đó để vui, để nói chuyện, để cuời. Mình đến đó để buồn, để nhớ, để trầm tư mặc tưởng.
Tôi nhớ nhất là những lần ngồi với người em gái Nam Dương xinh như mộng, tuổi chưa ba mươi, em là bác sĩ làm việc trong phái đoàn y tế Nam Dương phụ trách khám sức khỏe cho những ai sắp được đi Mỹ. Em đã khám cho tôi, em đã nói chuyện tâm tình trong lúc gặp tôi, và do định mệnh đã sui khiến hay sao, em đã mến tôi và sau đó chúng tôi thường đi chơi với nhau. Em kể cho tôi nghe về quê hương em, tôi kể cho em nghe về quê hương tôi, hai quê hương trái ngược một sướng một khổ, và em đã mủi lòng khi nghe đến chiến tranh, chết chóc, tàn phá, những chịu đựng và đau đớn của con người. Khi nghe nhạc Việt buồn, em bắt tôi dịch lời ca ra tiếng anh cho em thông cảm, em thông cảm với người viết bài ca, người hát bài ấy, hay với tôi thì không biết, nhưng có một điều chắc là em biết tôi đang buồn. Em cứ nhìn tôi không nói gì, vào những lúc tôi như muốn khóc, nhưng tôi có khóc đâu? Ngày tôi sắp đi em buồn lắm, em nói em cũng muốn đi Mỹ, đi để làm gì tôi không hỏi. Bây giờ chỉ còn bức hình chụp với em và các em của em, trên con tầu đưa tôi đi Tân Gia Ba để lấy máy bay đi đinh cư. Em đã muốn tiễn chân tôi đi và không đành ở lại bến tầu Galăng, phút chót em đã theo con tầu hay theo tôi? Tôi có cãm tưởng như có cái gì đã liên kết hai đứa tôi vào lúc đó. Em đã tiếc tôi ra đi quá nhanh, em đang xin giấy cho tôi tới đất liền để em đưa tôi đi thăm nơi em ở là Gia Các Ta (Djakarta) mà không kịp. Có những tuần em không về nhà liền vào chiều thứ sáu mà lại ở lại ngày thứ bẩy, em đưa tôi đi ăn ở những quán rẻ tiền ở Ga lăng một, làm tôi cứ bứt rứt, nghĩ buồn cho thân phận, mình đã không có khả năng bao em, phải để em bao mình. Không hẳn là tôi không có tiền, vì tôi chẳng đi làm cho cơ quan thiện nguyện Save The Children và được một
đô la một ngày là gì? Nhưng số tiền ấy chỉ đủ cho cà phê và thuốc lá. Thôi thì vì hoàn cảnh, tôi cũng chẳng thiết gì ăn, tôi đã chỉ muốn được bên em, được đi cạnh em, nắm tay em cho bớt thấy cô đơn. Lần chót đi uống cà phê với nhau, trong bóng tối của lá cây um tùm, em đã để cho tôi ôm, cho tôi hôn, nhưng chỉ có thế, có thế thôi, không gì hơn nữa.
Đến Tân Gia ba, em đưa tôi đi ăn, đi sắm một cái quần tây rẽ tiền, một chiếc sơ mi dét (chemisette, sơ mi ngắn tay) và một đôi giầy ba ta, thứ giầy vải có đế mỏng mà mẹ tôi bắt tôi đi khi tôi còn đi học.Tôi đâu có nhiều tiền để mua đồ sỉn như hồi xưa, khi tôi còn là sinh viên.

Những ngày tôi còn thanh niên, tôi cử tạ cho thân người nẩy nở, tôi đi xe mô-tô, mặc quần áo may theo mẫu trong ca-ta-lốc (catalogue), và đi giầy i-ta-li (Italie). Bao nhiêu tiền đi dạy kèm trẻ tại tư gia, đưa hết cho tiệm may Văn Quân ở đường Gia Long, gần rạp hát Lê Lợi, và các tiệm giầy gần đó, để rồi đi chơi với các em, đôi khi phải để em bao, vì sờ túi thấy không còn tiền. Được cái các em con nhà giầu, mà lại thích “anh” nên chẳng sao, nhất là các em biết tôi là tay chịu chơi, không bao giờ hà tiện, bủn sỉn. Ngồi sau mô-tô anh phóng như bay, em cứ ôm sát vào lưng anh, dựa đầu lên vai anh, và lấy bàn tay xoa những bắp thịt vai cứng như đá của anh, em thấy ngây ngất trong lòng, quên đi lúc em phải mở ví. Vả lại tôi cũng đâu phải dân bẩn, sau đó để trả lại những món nợ do hoàn cảnh, tôi thường mua tặng em những món quà đắt tiền như cái vì da hay lọ nước hoa để rồi em vui, em cười, em nói “ Sao anh dễ thương quá vậy?”

Tiền bà cô tôi gởi cho, năm mươi đô la, đến vào đúng giờ đúng lúc, vì nếu không thì tôi chẳng biết phải làm sao, không lẽ đi với em chỉ dòm dòm, ngó ngó. Trên đường phố sang trọng của thành phố đẹp nhất nhì Đông Nam Á này, tôi đang ngắm những cặp giò cao của những cô gái gốc Triều Châu thì em đã hỏi “Để chuẩn bị đi Mỹ, anh còn phải mua gì nữa không?”. Tôi đã cứ giả vờ không nghe thấy và đùa với mấy đứa em của em cho thời gian chóng qua đi. Lúc tôi trở về trại và em phải chia tay tôi vĩnh viển, dường như tôi thấy đôi mắt em long lanh, em cứ nhìn tôi mà không biết nói gì. Để chấm dứt sự căng thẳng, tôi cám ơn em đã ưu đãi tôi và hứa rằng khi qua đến Mỹ tôi sẽ biên thư cho em. Quả thật tôi đã viết liền cho em khi tôi đến Nữu Ước, nhưng không nhận được thư hồi âm. Có lẽ em đã bổng ý thức rằng tôi đã có vợ, có con, mơ mộng viển vông không đưa đến đâu cả. Thế nhưng đối với tôi, em đã là một nàng tiên, bổng nhiên từ trên trời rơi xuống, để mang đến cho tôi những giây phút đẹp nhất trong cuộc đời, và hạnh phúc tôi có được bên em đã tô điểm cho cuộc ra đi của tôi những nét mầu hồng, những nét hồng phác nhẹ trên nguyên cái nền mầu đen.

Tôi đã phải ở lại Tân Gia Ba hai ngày, rồi được cho ký giấy nợ với cái cơ quan quốc tế ICEM (Intergovernmental Committee of European Migration), cơ quan liên chính phủ lo cho những di dân ở Âu Châu. Cái chữ M(igration) nó đã làm cho tôi liên tưởng đến những đàn chim, đàn cò, cứ đến mùa lạnh là bay về những chân trời phía nam, nơi có ánh nắng mặt trời ấm cúng. Tôi không đi về phía nam, nhưng tôi cũng đang đi tìm một chân trời ấm cúng, nơi mà các con tôi, nếu một ngày nào chúng tôi được đoàn tụ, sẽ chắc chắn thấy được ánh nắng ấm của hạnh phúc, của tương lai.



Trên con đường đến đất Tự Do

Ngày hai mươi ba tháng chín, tay trái cầm một cái túi lát-tích (plastique) trắng bự có in dấu hiệu ICEM ở hai bên, trong đó có một đống giấy tờ gì tôi không biết, và những tấm hình to tướng chụp phổi chụp gan gì đó, tay phải ôm khư khư cái túi trong có mớ quần áo cũ, kỷ niện cuộc đi băng Kămpuchia, tôi đã bước lên máy bay đi Cựu Kim Sơn, cái thành phố nổi tiếng mà ai cũng biết đến, trừ những thằng nhà quê như tôi. Trên ngực tôi, người ta đã dán một nhãn giấy, trên ghi nơi tôi sẽ đến, chuyến bay tôi sẽ đi và hội từ thiện đã đứng ra giúp đỡ tôi đi định cư. Trong túi tôi còn tờ mười đô la, mà tôi lâu lâu cứ sờ sờ vì sợ bị đứa nào móc túi lấy mất, tâm trạng tôi vẫn là tâm trạng của kẻ đã sống bẩy năm đưới chế độ cộng sản chuyên chế.
Chiếc máy bay đáp xuống phi trường Cựu Kim Sơn vào buổi chiều, khi trời đã xẩm tối. Chúng tôi đã được đai diện ICEM và những cơ quan thiện nguyện ra đón và đưa lên những xe buýt to tướng. Tôi đã quá mệt vì chuyến đi dài chưa bao giờ tôi tưởng tượng nổi, nên tôi cứ thấy ai làm gì thì tôi làm theo. Trời hơi lành lạnh mà tôi chỉ phong phanh có chiếc áo mới mua ngắn tay, làm tôi nổi da gà và rùng mình. Ngồi trên chuyến xe buýt, tôi như anh nhà quê ra tỉnh, nhìn những xe hơi đi vùn vụt qua, thấy vừa chóng mặt vừa nhức đầu. Và chắc hẳn là tôi có cái mã của anh nhà quê, vì bẩy năm trời tôi đã sống trong một thế giới thiếu văn minh, nếu không muốn nói là man rợ, một thế giới đã xoay trở lại hai ba mươi năm về quá khứ.
Tôi được đưa đi đâu khi đó tôi không biết, tôi chỉ nhớ tôi đã thấy xe chạy qua một cây cầu dài tôi chưa từng thấy trên đời, rồi sau đó còn đi cả tiếng đồng hồ đến một nơi đồng không mông quạnh như một khu quân sự. Sau này thì tôi mới hay đó là trại Ha Min tơn (Hamilton), gần chùa Vạn Phật, và cây cầu đó là cây cầu nổi tiếng Gâu Đơn Ghết (Golgen Gate) bắt ngang qua vịnh Cựu Kim Sơn. Chúng tôi được đưa đến một trại lính cũ, vào một căn phòng lớn mênh mông chứa cả mấy trăm người, hai người chia nhau một giường hai tầng.
Để đồ vào những hộc tủ có khóa xong, chúng tôi được hướng dẫn xuống nhà ăn, nơi đây, lần đầu tiên trong đời, tôi thấy nhiều đồ ăn đến thế! Nào thịt gà, thịt bò, nào rau, nào khoai tây, đủ thứ nước chấm , trái cây đủ loại, cam táo nho lê mận chuối, ôi tha hồ ăn, vừa ăn vừa bỏ túi. Tôi mới từ một thế giới chết đói đến một thiên đường dư thừa mọi thứ, trông cái gì cũng hoa mắt, cũng thèm, cũng muốn. Nghĩ lại bây giờ thấy sao tôi đã thảm hại đến như vậy? Chẳng gì ở Việt
nam trước kia, tôi cũng là ông này bà nọ, chứ có phải là dân cu li đâu? Thế mới thấy cộng sản
đã đầy đọa con người, đã làm cho con người không còn phẩm giá vốn dĩ của mình nữa.
Sau bữa cơm tối, tôi ra sân nhìn trời nhìn đất mà lòng bâng khuâng không bìết mình vui hay buồn, nay mình đã ở đất Mỹ. Thật là quá sớm cho tôi có được một ý niệm rõ ràng về mảnh đất mà tôi sẽ phải gọi là quê hương này.
Trời lạnh làm tôi rét run, đứng chưa được mươi phút, tôi phải chui trở vào trong nhà. Tất cả đã trở về phòng ngủ sau khi ăn xong, tôi cũng vội vã đi theo những người sau chót. Đêm ấy tôi ngủ như chết vì mười mấy giờ trên máy bay tôi đâu có chợp mắt được.
Trên con đường đi định cư, đa số có những người thân thuộc bên cạnh, chỉ riêng tôi và một số thanh niên là cô độc. Trong cái hoàn cảnh đó, tôi đã được một số thanh niên chấp nhận, và chúng tôi đã thành một nhóm, đi đâu cũng có nhau. Như thế cũng phần nào làm cho mỗi đứa chúng tôi thấy ấm lòng hơn, khi chân ướt chân ráo đến nơi xứ lạ quê người, bao nhiêu lo nghĩ, bao nhiêu băn khoăn, đang tràn ngập đầu óc chúng tôi.

Đến ngày hôm sau, các cơ quan thiện nguyện đã dán danh sách với đầy đủ chi tiết như tên người đi định cư, nơi đi định cư, tên người bảo lãnh, ngày giờ và tên chuyến máy bay. Khi tôi tìm tên tôi thì tôi được biết cơ quan lo cho tôi đi là USCC, nơi tôi đi là một tỉnh ở Alabama, người bảo lảnh tôi là bà bác vợ tôi, và chuyến máy bay tôi đi là bốn giờ sáng ngày hôm sau. Nhìn thấy cái tên Alabama là tôi đã mất hồn, mất vía. Tôi không biết Alabama ở đâu, tôi chỉ biết qua báo chí rằng nơi ấy có nhiều Mỹ da đen, có bọn KKK, và đó không phải là một tiểu bang ngon lành như Ca li phọc ni a, Tếch xát, hay Nữu Ước. Do vậy mà tôi cuống cuồng đi hỏi nơi đặt văn phòng của USCC để đến xin đi Nữu Ước, nơi có người bảo lảnh tôi là dân biểu Norman Lent.
Khi tôi cùng môt thanh niên tôi quen đi tới văn phòng ấy, thì một người Việt nam làm việc cho cơ quan USCC đã tỏ ra hổng hách, dọa nạt tôi, coi tôi như một tên mọi mới ở Phi châu đến. Khi tôi nói tôi không muốn đi Alabama mà muốn xin đi Nữu Ước thì tên khốn nạn đó đập bàn quát lên với tôi rằng tại sao không đi Alabama, tại sao đòi đi Nữu Ước, mới ở Việt Nam qua đã biết gì mà đòi thế này thế nọ, giấy tờ USCC bảo đi đâu thì phải đi đó và không có đổi chác gì hết, tối hôm đó phải lên máy bay đi Alabama.
Tôi nghe thằng chó chết ấy, thay vì giúp đỡ tôi là dân tị nạn, lại dở trò quan liêu, bắt nạt tôi, coi thường tôi, nên máu cu li của tôi nổi lên, tôi văng tục tùm lum, đòi đánh nhau với nó, và chửi cha cả tổ chức USCC lẫn nó lên. Tôi bảo nó tôi đâu có nhờ USCC hay USKK bảo trợ cho tôi bao giờ đâu, tôi chẳng biết USCC là cái quái gì, tôi không hề làm đơn hay ký tên trên giấy tờ của cái cơ quan đó, tôi chỉ biết có cái giấy của dân biểu Mỹ ở Nữu Ước bảo lãnh cho tôi vân
vân và vân vân. Mỗi câu tôi nói, vào cái lúc tôi điên tiết đó, đều có hai chữ ĐM hay CCC, tên đó nghe hoảng hồn bèn đổi giọng nói với tôi là để rồi hắn lo.
Đêm hôm đó trên chuyến bay đi Alabama, không có tôi. Ba hôm sau, khi hầu hết những dân tị nạn đã đi rồi, chỉ còn lại chừng hai chục người, tôi mới đươc thông báo là hãy chuẩn bị để đi vào sáng sớm ngày thứ sáu tức là hôm sau. Tôi đâu có gì để chuẩn bị, chỉ có cái túi quần áo ăn mày, cái quần tây, cái áo sơ mi ngắn tay đã mặc trên người, đôi giây ba ta đã đi vào chân, còn cái gì nữa đâu ngoài tờ mười đô la để trong túi quần?
Lúc lên máy bay, ai cũng được phát cho một chiếc áo ấm, mà mãi sau này tôi mới biết tên gọi là dắc két (Jacket), nhưng khi đến phiên tôi, thằng khốn kiếp đó nó thù tôi, nó không cho. Tôi hỏi nó, nó bảo giấy tờ USCC đưa tôi đi Alabama, nay tôi đi Nữu Ước tôi không được!
Sau này, sau khi máy bay đáp xuống phi trường Ken ne đi, tôi mới biết rằng nó còn chơi tôi một đòn làm tôi phải khóc tu tu như một đứa trẻ. Lúc đó quả thật nếu tôi về được Kem Ha Min Tơn (Camp Hamilton) thì chắc chắn thằng ấy ít nhất cũng phải mất vài cái răng cửa. Ngày tôi chạy xích lô, tôi đã từng đập những thằng cán bộ và bộ đội cộng sản, tên ăn mày này có thấm gì? Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn căm cái tên mất dạy đó, tôi vẫn còn muốn bịch nó, nhưng không biết nó ở đâu mà bịch.

Lúc hai giờ trưa, khi khoảng hai chục đứa chúng tôi xuống phi trường Nữu Ước và vào trong nhà ga, đại diện những hội từ thiện hay chính những người xì pông so (sponsor) đã hoặc ở đó, hoặc sắp sửa đến. Chỉ có tôi là chẳng có ai biết mà ra đón. Sau khi tất cả những người tị nạn kia đã đi hết, tôi cứ đứng đó chờ, chờ hoài, chờ mãi cho đến năm giờ chiều mà không thấy gì. Tôi ngồi bệt xuống đất dựa lưng vào tường, tay ôm cái túi quần áo, và nước mắt tôi bắt đầu chảy ra. Tôi không biết phải làm gì, vì mình có ở Mỹ bao giờ đâu? Tôi chỉ biết ngồi đấy chờ, trong đầu lo không có ai đến đón thì làm sao đây?
May phúc cho tôi có một người đàn ông Mỷ đi qua, thấy tôi thút thít khóc, thương tình hỏi tôi có chuyện gì. Tôi nói tôi là người Việt tị nạn, hội USCC đưa tôi đến đây mà không cho xì pông so tôi hay, nên không ra đón tôi, bây giờ tôi không biết phải làm sao. Ông ta đưa tôi vào văn phòng hãng máy bay United Airlines, rót cho tôi một tách cà phê, rồi nói chuyện với tôi một lúc. Ông tự giới thiệu là me ne dơ (Manager), có người anh ruột sang chiến đấu ở Việtnam và đã hy sinh trong trận chiến gần Pleiku. Ông nói ông rất thương dân tộc Việt và bảo tôi nếu không ai đến thì tôi sẽ về nhà ông ở tạm cho đến thứ hai. Ông nói chiều thứ sáu các văn phòng USCC đóng cửa không còn ai làm việc. Tôi bèn chìa ra tờ giấy của dân biểu Norman Lent, ông cầm lấy đọc, và may phúc cho tôi trên đó có số điện thoại liên lạc với văn phòng thường trực của quốc hội. Ông gọi số đó, người ta cho số nhà của vị dân biểu, ông gọi nhà của người ấy, và được trả lời là sẽ cho người ra đón trong vòng nửa giờ. Thế là tôi thoát chết! Cái thằng khốn nạn ở USCC tính hại tôi, nó biết tôi nhà quê lên tỉnh, tưởng tôi không biết mần mò, cho rằng tôi sẽ chết vì cái đòn độc địa của nó. Nhưng số tôi cao, có Trời Phật phù hộ, nên ông Mỹ đó đã cứu tôi.

Đúng nửa tiếng sau, ông Gellerman là người thực sự xì pông so cho tôi, dân biểu Lent chỉ đứng tên trên giấy tờ cho tôi mau được đi, đến đón tôi. Vừa thấy tôi, ông nhe răng cười và nói “cái thằng bé con như mày mà Florence bảo tao mày là giáo sư đại học!”. Florence là bà bác sĩ Gellerman, người đã nhận giúp đỡ tôi từ khi tôi còn ở NW9. Ông cám ơn ông me ne dơ, tôi cũng nắm chặt tay cám ơn ông me ne dơ rồi chúng tôi đi ra về bằng chiếc xe ca đi lắc (Cadillac). Nhà ông ở Merrick, Long Island, một căn nhà sang trọng, trong một khu sang trọng. Bà Gellerman ra cửa ôm tôi và nói “Congratulations! You are now in America!” (Tôi mừng cho ông ! Bây giờ ông đã đến đất Mỹ)

Những Ngày Đầu trên Đất Mỹ

Với tư cách tị nạn, tôi đã được cấp một tờ chứng nhận gọi là ai nai ti pho (I94)  với những chi tiết như sau:

I94 issued September 30 1981 in San Francisco
Alien registration # Ạ-277-501
CAT IV/ GT 282616
Visa issued September 23, 1981

Sáng hôm thứ bẩy bà Gellerman bảo tôi “Anh sẽ phải lên Men hát tăn (Manhattan)  kiếm việc. Nhưng muốn đi làm, anh phải đi xin sâu sơn xê kiu ri ti năm bơ (Social security number). Thứ hai tôi sẽ đưa anh đi xin, bây giờ anh ra ăn sáng.” Tôi chẳng hiểu bà nói cái gì. Tôi không biết Men hát tăn ở đâu và cái Sâu sơn xê kiu ri ti năm bơ là cái quái gì. Tôi ngớ ngớ ngẩn ngẩn, cái gì bà nói cũng ô kê. Chúng tôi ngồi vào cái bàn tròn ngay cạnh bếp, bà cho tôi uống nước cam rót từ cái bình lát tích to tướng bằng cái bình đựng nước tương bên nhà, ăn cái bánh gì không giống bánh mì mà trông lại giống cái phao đi bơi nhỏ xíu, làm tôi nhớ lại Đồ Sơn vào những khi tôi mười hai, mười ba tuổi đi biển đeo cái ruột bánh xe hơi bơm căng để khỏi bị chết đuối. Tôi ăn không thấy ngon, thêm vào đó lại còn phết cái chất gì giống như kem sữa đặc nhưng lạt phèo, mà lại hột hột. Tôi hỏi bà đó là cái gì, bà nói bây gơn (bagel) và cốt tết chi (cottage cheese). Bà hỏi tôi ăn ngon không, tôi nuốt không dô nhưng cũng phải nói ô kê. Bà còn đưa cho tôi một quả chuối xanh lè, tôi vốn đã ghét chuối, nay lại thêm chuối xanh, tôi làm sao ăn cho được? Tôi nói “nâu, thanh kiu”, bà đưa cái bình vuông vuông bằng giấy cạc tông trên có chữ milk, tôi biết ngay là sữa, hỏi tôi vắn tắt “miếc?”. Tôi cũng lại “nâu, thanh kiu”. Đầu tôi lúc ấy chỉ nghĩ đến một bát tái nạm gầu, thơm phưng phức, nóng hổi, rau thơm, giá chanh ớt và một cốc cà phê đen đậm. Tôi tự nhủ “sống ở Mỹ ăn những đồ quỉ này chỉ có mà chết sớm!”

Trong suốt thời gian ăn sáng, tôi thấy chồng bà tên Xi Mua (Seymour) chỉ vừa đọc báo vừa nhai, mà chẳng nói câu gì, và cũng chẳng thèm để ý đến tôi. Tôi bổng nhận thấy rằng hình như trong căn nhà đó, ông chồng chỉ ngồi yên không quyết định việc gì, tất cả đều do bà vợ. Tự nhiên tôi cảm thấy nhột nhột, hơi buồn vì thấy có lẽ mình đã vào lầm nhà.

Ăn sáng xong, Xi Mua đi vào phòng làm việc nhỏ xíu của ông, vặn ti vi lên xem, Phơ Lo (Flo, tắt cho Florence) ra ngồi ghế bành đọc báo. Tôi mon men lại gần, bà bỏ tờ báo xuống nhìn tôi với đôi mắt trìu mến và hỏi “ yét đia?” (Yes, dear?). Tôi lấy hết can đảm hỏi bà làm sao để lảnh oen phe (welfare), bà trợn mắt nói với tôi rằng không nên nói cái chữ đó trong nhà bà. Rồi bà dài giòng kể rằng bố mẹ của cả Xi Mua lẫn bà đều từ I dơ ra en (Israel) đến, nghèo khổ nhưng không bao giờ ăn oen phe. Bây giờ tôi cũng là một thành phần trong cái gia đình Do Thái ấy, không được nghĩ đến chuyện ăn cái thứ ấy. “Don’t you ever think about getting it!” là nguyên văn câu bà nói. Thế có chết cha tôi không? Thảm nào lúc nãy bà bảo tôi đi tìm việc!

Chiều thứ bẩy, và sau này tất cả mọi chiều, chiều nào cũng như chiều nào, sau khi ăn cơm xong, Xi Mua và tôi phải cho bát đĩa dơ vào máy rửa chén, phải rửa, đánh bóng, chùi khô rồi cất đi cả năm bẩy cái chảo, soong, nồi. Chẳng bao lâu sau đó, Xi Mua vì đã từng phải làm cái công việc đó chắc cũng đã hai ba chục năm rồi nên chán ngấy, ông chỉ đứng làm với tôi dăm ba phút rồi bảo tôi “iu heo me đu dờ rét, ô kê?” xong ông trốn vào cái “lỗ chui ra chui vô” (như lời nói của Nguyên Cao Kỳ hồi xưa khi thương phế binh chiếm đất cắm dùi ở Saigon) tức là cái phòng làm việc của ông. Tôi như vậy phải lãnh đủ, cho đến ngày tôi đủ lông đủ cánh bay đi tìm tự do.

Sáng chủ nhật, tôi chưa ngủ dậy, thì Phơ Lo gõ cửa phòng tôi. Tôi vừa ló đầu ra thì bà bảo tôi dậy ăn sáng rồi đi nhà thờ. Khốn nạn cho tôi, tôi là Phật tử, nay bắt tôi đi nhà thờ Do Thái là thế nào? Tôi nói “Ai ken nốt gâu, ai am bu đít” nhưng bà vẫn bắt tôi đi, bà nói sẽ giới thiệu tôi cho tất cả cái cộng đồng người Do Thái trong nhà thờ của bà, nhất là với ông ráp bai (rabbi). Thế là tôi phải dậy, sửa soạn ăn sáng rồi đi.
Tại cái nhà thờ trông lạ mắt xây theo những hình thù hình học ấy, tôi cứ lẽo đẽo đi theo Phơ Lo để bà giới thiệu tôi với hết người này lẫn người kia, trong khi Xi Mua tìm đường lẫn đi đâu lúc nào tôi không hay. Những đứa con gái tuổi mười lăm mười sáu, tưởng tôi mới hai mươi, hai mươi lăm, cứ sán lại tôi làm quen. Hồi đó, tôi gầy gò cân nặng chỉ bốn tám năm mươi kí lô, nhìn vào ai bảo tôi bốn mươi? Chẳng thế mà khi ở Cựu Kim Sơn, đi học chương trình Em Bi Ây
(MBA) ở trường Sư Tết (State) tôi được bao nhiêu em tầu, phi, đại hàn tuổi chưa ba mươi mết như điếu đổ.
Sau đó, tôi cũng phải dự lễ. Phơ Lo đưa cho tôi cái nón Do Thái để tôi đội lên chóp bu đầu và bảo tôi “Anh là người Việt Do Thái đầu tiên!”. Tuy hôm ấy hơi vất vả, nhưng sau đó tôi được người ta đem cho nhiều quần áo cũ, nhiều cái còn mới đẹp tới độ Xi Mua thấy thèm dành của tôi.
Hôm thứ hai, sau khi Xi Mua đi làm, tôi mới hỏi Phơ Lo chồng bà đi làm ở đâu, làm gì, thì bà nói Xi Mua làm cho một tờ báo ở Men hát tăn. Luôn thể tôi hỏi Men hát tăn ở đâu, bà mới nhìn tôi với đôi mắt ngạc nhiên nói “anh không biết ư? Đó là tên của thành phố Nữu Ước”. Khoảng chín giờ bà đưa tôi đến sở an ninh xã hội để xin cái sâu sơn xê kiu ri ti năm bơ, bà chỉ cho tôi điền đơn rồi chúng tôi phải ngồi chờ cả tiếng đồng hồ mới được nộp đơn. Sau đó bà đưa tôi đến một tiệm giầy, và nói “anh phải có một đôi giầy cho tốt để đi làm”.

Trước hàng trăm đôi giầy đủ loại, bà hỏi tôi chọn đôi nào, tôi chỉ đôi giầy I ta li, thì bà trố mắt lên nhìn tôi. Bà chỉ đôi giầy cao cổ mầu vàng khè và bảo tôi mua đôi ấy vì mùa lạnh sắp tới, tôi sẽ cần đôi ấy mới đủ ấm. Tôi đòi mua đôi mầu đen, bà nói những đôi khác không ôn sen (on sale), tôi không hiểu bà nói gì, bà giải thích là đôi vàng không ai thèm mua, nên nó rẻ hơn những đôi khác. Chúng tôi vào mua đôi ấy, mất hơn sáu chục đồng, bà trả tiền rồi bảo rằng tôi nợ bà số tiền đó, khi nào đi làm có tiền trả lại.

Sáng sớm hôm sau, hôm thứ ba, bà đánh thức tôi dạy, bảo tôi đi theo Xi Mua lên Men hát tăn đi kiếm việc. Bà hỏi tôi có tiền đi xe lửa không, tôi có mười đồng nhưng dành phòng thân nên nói không có. Bà móc ví lấy tờ mươì đồng, đưa cho tôi nói “như vậy anh nợ tôi bẩy chục”, tôi nói ô kê. Rồi tôi đi theo Xi Mua ra trạm xe lửa mua vé đi lên Men hát tăn. Khi đến nới, tôi cứ theo Xi Mua đi trong rừng người đang chui ra từ những chiếc xe lửa tại Pen sừ tây sơn (Pennsylvania, gọi tắt là Penn station). Ra đến ngoại đường, Xi Mua quay sang tôi nói “Iu a ôn i-ua ôn, gút lấc” (bây giờ anh tự lo lấy cái thân anh, chúc anh may mắn). Rồi ông hẹn tôi, chiều năm giờ gặp nhau ngay tại chỗ đó. Tôi là thằng nhà quê, chưa bao giờ bước chân lên một thành phố Mỹ nên tôi sợ chiều không biết chỗ nào mà mò. Tôi bèn lấy giấy trong túi, vẽ một họa đồ nhỏ, và từ đó cứ đi đâu thì lại ghi vào.

Chân ướt chân ráo đến đất Mỹ mà Phơ Lo bắt tôi đi kiếm việc! Mà bà lại chẳng chỉ cho tôi đi chỗ nào, xin làm sao. Tôi nghĩ tôi biết nhiều từ y khoa, tôi nên đi vào bệnh viện, may ra nó cho mình làm thông dịch hay thư ký. Như thế, tôi cứ đi lòng vòng, bệnh viên nào cũng vô, chỗ thì nói nô dốp (no job), chỗ có việc làm da ni to (janitor) chùi dọn bệnh viện, thì nó hỏi ở Việtnam làm gì, tôi bảo tôi làm giáo sư, nó nói tôi ô vơ qua li phai (overqualified) và nó thanh kiu tôi. Tôi không hiểu ô vơ qua li phai là cái con khỉ khô gì nhưng buồn thì tôi càng ngày càng buồn. Đi bộ mỏi cả chân, nước không có mà uống, săn u-ít (sandwich) chỉ có hai đồng bạc nhưng không dám ăn, tôi thấy khốn khổ, khốn nạn. Tôi tưởng sang Mỹ là tự nhiên sướng, đâu dè những khó khăn của cuộc đời nơi đâu chẳng có? Mệt lả, tôi nhìn tôi trong những tấm gương lớn trước những cửa hàng và tự hỏi “Taị sao giờ này mình lại ở đây? Vợ con mình đâu? Sao phải lủi thủi một mình?” Tôi cảm thấy tôi bệ dạc, không còn ý chí nghị lực, không còn tự hào, không còn muốn cái gì nữa. Và cứ thế tôi lê chân đi khắp phố này đến phố kia tìm cái dấu hồng thập tự để vào. Đi đâu tôi cũng tự giới thiệu mình là tị nạn người Việt, cần tìm việc để sống.

Sau này tôi mới thấy tôi ngu, vì Mỹ nó có thương gì tị nạn Việt? Chiến tranh Việt nam là một vết ô nhục cho họ, họ chỉ muốn quên, khều cái vết thương đó ra cho nó lại chảy máu đâu ích gì? Ở Saigon tôi hận Mỹ đã bỏ rơi chúng tôi, bây giờ tôi căm Mỹ không thương gì tôi hết. Thật là ngây ngô nhưng đó là cảm tưởng của tôi những ngày đầu tiên dậm chân trên đất Mỹ.

August 27, 2018

Hồi Ký “VỀ MỘT CUỘC RA ĐI" - Giáo sư Trịnh xuân Đính - Đến Panatnikhom



Đến Panatnikhom Holding Center
Panatnikhom Holding Center, cũng còn có tên là Panatnikhom Processing Center, là trại mà tất cả những dân tị nạn đường biển và đường bộ ở Thái Lan đến để được phái đoàn  các nước nhận tị nạn trên thế giới phỏng vấn. Nơi đây có văn phòng đại diện thường trực của các cơ quan quốc tế như UNHCR, các JVC’s (joint voluntary agencies, hội thiện nguyện), và các cơ quan từ thiện. Nơi đây cũng là nơi tôi thấy có trường École Sans Frontières dạy tiếng pháp cho những ai xin đi tị nạn tại Pháp.

Nhà dành cho dân tị nạn làm bằng bằng fibro-ciment lợp tôn, từng giẫy dài, cứ bốn giẫy như thế tạo thành những ô vuông, ở chính giữa là khoảng đất trống mà dân tị nạn dùng làm nơi trồng các thứ rau và khoai. Đường đi là đường đất đỏ, không có điện nên đêm đến tối thui. Chỉ những đường chính và khu làm việc của các cơ quan là có đèn. Tôi được chỉ định ở tại căn nhà số 2G37.
Ngay ngoài trại, cách một hàng rào là một khu chợ nhỏ bán đủ thứ thực phẩm, quần áo, tạp hóa, cửa hàng ăn uống mà chúng tôi được tự do lui tới.
Trại Panatnikhom rất lớn đi từ nơi này đến nơi kia rất xa, mỏi cả chân. Ban ngày nóng như thiêu như đốt, có muốn ngủ cũng không ngủ được, thế mà ban đêm thì lại lạnh mà không có chăn mền, nên cũng lại không ngủ được ngon giấc. Cơm cho ăn thì tha hồ nhưng đồ ăn thì dở, nên phần lớn dân tị nạn phải đi chợ mua thêm thực phẩm về nấu riêng. Tôi sống với một số thanh niên nên được giúp đỡ nhiều.
Tại Panatnikhom, tôi gặp lại đươc anh Tâm là bác sĩ đã tốt nghiệp Đại học Y Saigon. Anh là
sinh viên trong những lớp pháp văn chuyên môn y nha mà tôi đảm nhiệm vào những năm bẩy sáu cho đến bẩy tám. Anh rất mến tôi từ những ngày còn ở đại học và nhận ra tôi, chứ tôi đâu còn nhiều trí nhớ sau những năm lao động khổ sở.

Nói chuyện với Tâm làm tôi nhớ lại những kỷ niệm vui buồn của những ngày sau khi cộng sản vào miền nam. Tôi vốn là nhân viên trường đại học Luật. Sau bẩy mươi lăm, trường Luật tạm ngưng hoạt động, các nhân viên ban giãng huấn vẫn được ăn lương nhưng không dạy học mà chỉ danh toàn thời gian tham dự lớp nghiên cứu chủ thuyết mác lê nin. Lớp này kéo dài cả năm trời, với những giảng viên cao cấp từ trường đảng ở Hà nội vào thuyết giảng. Chúng tôi  vừa học tập vừa phê bình và tự phê, tự kiểm thảo xem mình đã tiến bộ đến đâu. Mỗi tuần đều phải làm bài viết để bầy tỏ những gì mình đã hấp thụ được, đồng thời phê phán những ý niệm mới học về chủ nghiã cộng sản. Tha hồ mà ca tụng, mà tăng bốc Mác Lê nin, tha hồ mà nói hay nói tốt về cái biện chứng pháp, nâng bi đảng và nước ta đã khôn ngoan áp dụng uyển chuyển chủ thuyết cộng sản vào hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, để đưa dân tộc ta tiến thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa mà không kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa, vân vân và vân vân. Đến ngày phải bàn luận, phải bầy tỏ lập trường, phát biểu ý kiến, ai nấy cũng nhìn ai, xem ai nói trước và nói ra làm sao, vì mẹ kiếp, nói láo trên giấy thì dễ, nay phải đứng lên mà dùng cái mồm mà nói phét đâu có dễ, nó ngượng ngùng làm sao! Và nói phét vừa đủ để đừng bị kết tội là chưa học tập tốt, chưa hấp thụ những tư tưởng mới, chứ nói phét quá thì lại bị đồng nghiệp nhìn với một con mắt nghi ngờ, bảo rằng thằng này nằm vùng mà mình không biết, hay là thằng này ba mươi tháng tư muốn được kết nạp đảng.  Thế nhưng trong cái thời buổi rối ren, có lắm kẻ theo thời cơ chủ nghĩa, lắm kẻ tán tận lương tâm, sẵn sàng “hót cứt cho chủ mới của đất nước”. Khốn nạn  cho cái thân tôi, cũng bị “cuốn theo chiều gió”, cũng phải nói ngược lại những gì mình nghĩ trong đầu, đi ngược lại lòng mình, chỉ vì hoang mang sợ đi tù.
Mà đâu phải chỉ học tập tốt là đủ? Còn phải lao động tốt và chúng tôi cũng có những ngày đi đào mương, vét cống, những bàn tay trước kia chỉ quen cầm bút chấm bài phê điểm, nay cũng phải thò xuống bùn mà nâng những tảng đất rồi chuyền tay từ người này đến người kia, đến người chót tảng đất lớn chỉ còn bằng hai nắm tay, vì nó đã rơi rớt trên con đường vận chuyển. Nhưng rồi rốt cục trường Luật cũng bị đóng cửa, nhân viên giảng huấn nhận được giấy cho nghỉ việc, nhất là những người trong ban tư pháp, vì làm sao mà áp dụng luật tư bản vào xã hội xã hội chủ nghĩa? Vả lại như đã bàn đến trước đây làm gì có luật trong chế độ cộng sản?

Thế là ai nấy cố mà đi tìm nghề khác mà sinh sống. Có anh đi sửa đồng hồ, có anh đi dạy anh văn, có anh đi buôn, còn tôi may phúc đức tổ, có ông chú đi cách mạng về thấy thằng cháu đi
bán than cực đã đành, nhưng trông nó lại đen đủi như thằng ăn mày, mới nói “ thôi anh về dạy pháp văn bên trường y khoa. Để chú nói cho đồng chí bí thơ đảng bên đó!” Tôi đươc sang dạy pháp văn chuyên môn, dạy toàn những danh từ y nha khoa, dạy riết, đọc riết các báo y nha khoa bằng tiếng pháp, tôi nói chuyện y khoa nghề tới độ nhiều sinh viên năm thứ ba, thứ tư hỏi tôi “Thầy là bác sĩ hả thầy?” Tôi bảo tôi có là bác sĩ cái khỉ khô gì đâu. Vì đọc hoài tôi nói ra như con vẹt, nói riết thành ra nói như thể mình tin ở những lời mình nói, thành ra sinh viên mới tuởng như thế. Nhưng đó cũng là một điều hay bởi vì trước kia tôi có biết giây thần kinh mơ hồ là cái gì, thế mà sau đó tôi dám nói với các sinh viên rằng cắt cái giây thần kinh mơ hồ đó đi thì nó không còn kích thích cái bao tử tiết ra chất a xít và do đó chữa được cái bệnh đau bao tử. Làm sao mà sinh viên không tưởng tôi là bác sĩ khi những điều tôi nói đó lại chỉ mới phổ biến trong các tạp chí y khoa, chưa thông dụng trên thực tế.

Sau này đi vượt biển hụt, đi tù rồi trở về, làm sao còn đi dạy được nửa, tôi bèn quay ra đạp xích lô, khi chở khách vào Chợ lớn ngang qua trường y, tôi nhớ lại những bạn cũ muốn vào chơi quá. Trong số bạn nơi đây, tôi có anh Châu chơi rất thân với anh Trung làm bên khu giải phẫu. Sinh viên thường thực tập giải phẫu trên chó đã bị gây mê. Sau mỗi buổi thực tập như vậy, có mười mấy con chó được đem cho những nhân viên nào thèm thịt. Dưới xã hội xã hội chủ nghĩa, thịt heo, thịt bò, thịt gà đều đắt, ai cũng ăn thịt chó vì nó rẻ. Do vậy mà ai nấy đều dành những con chó đã bị giãi phẫu đó. Nhưng vì có tay trong, nên lâu lâu anh Châu lại mang về được một con. Nhưng anh lại không biết làm chó, và càng lại không biết nướng chả chìa hay nấu rựa mận. Luộc thì dễ quá, nhưng không lẽ luộc cả con chó? Do vậy mỗi khi mang được một con về nhà là anh kêu các bạn đến nhậu, nhưng không lẽ mang con chó sống ra mà nhậu, anh đành bảo ba bốn đứa đi tìm tôi ở những nơi tôi thường đậu xích lô chờ khách. Và thấy mùi chó là tôi bỏ cả khách mà về.

Chúng tôi lên tuốt mái chung cư Nguyển Thiện Thuật đun nước sôi cạo lông chó, lấy sách y khoa và tự điển ra thui chó, xong rồi nào chặt, nào băm, nào thái, chúng tôi dùng đủ thứ gia vị tiêu hành tỏi riềng, lá mơ, mắm tôm. Đứa thì dọn dẹp cho sạch sẽ, đứa thì chuẩn bị bát điã, ly, đế, bún, bánh đa, đứa thì lo nướng chả, đứa thì canh nồi luộc, còn tôi thì chuyên nấu nướng.
Khi xong món luộc thì vớt ra cho nguội, khi chả vừa chín thì bắt đầu ngồi nhậu. Nửa tiếng sau hết chả thì có đứa ra thái thịt luộc, và thêm nữa tiếng nữa thì đến món rựa mận ăn với bún. Bắt đầu nhập cuộc với mươi người mà sao chúng nó ngửi thấy mùi ở đâu mà cứ đến thêm, mỗi đứa sách theo chai rượu, nào thuốc, nào than, nào rắn, nào ông già, cuối cùng đứa nào cũng say mèm, đi không vững, ăn nói lè nhè. Nhưng ít ra cũng quên đời được một lúc! Riêng tôi, lại leo lên xích lô đạp về nhà, miệng hát “ Je suis parti, sans un adieu, il valait mieux pour tous les deux, laisse-moi te dire, laisse-moi te dire, je t’aimais bien…”

Những ngày ở Panatnikhom, sáng tôi đi dạy pháp văn ở Ecole Sans Frontières, nhà số 3C20, trưa về làm đơn nộp xin được phỏng vấn. Tôi được phái đoàn pháp kêu trước tiên. Tôi được một viên đại tá pháp già, tên colonel Tricorneau phỏng vấn.
Sau khi hỏi tôi tại sao xin đi Pháp, đã học hành đến đâu, học ở đâu, đi làm những đâu, làm những gì, ông hõi tôi có vợ con không. Tôi trả lời tôi có một vợ, bốn con. Ông hỏi vợ con tôi đâu, sao không đi theo để được phỏng vấn, tôi bèn trả lời họ ở lại Việt Nam. Ông vổ vào đùi cái đét, cười phá lên và nói “Ben alors! Vous êtes géographiquement célibataire!” (Ồ như thế trên phương diện địa dư, anh chưa có vợ đấy nhé!). Sau đó, ông bảo tôi được chấp nhận trên nguyên tắc, và nếu không có gì trắc trở, tôi sẽ đi Pháp trong tháng tám.
Sau đó một thời gian ngắn, tôi được phái đoàn Mỹ kêu. Tôi đến gặp một người Mỹ da đen, ông tự giới thiệu là cựu trung úy thủy quân lục chiến. Ông hỏi tôi đại khái giống như bên phái đoàn pháp đã hỏi. Sau cùng, ông nói với một giọng mà tôi nghe tôi thấy khó chịu “ông đã được nhận vào Pháp, tại sao ông còn xin vào Mỹ?” Tôi trả lời “Pháp không chịu trách nhiệm gì trong vụ xụp đổ của miền Nam Việtnam. Họ nhận tôi vì tinh thần nhân đạo. Còn Mỹ phải trả món nợ này cho chúng tôi vì nếu Mỹ không nhúng tay vào Việt Nam, thì giờ này tôi không phải ngửa tay xin ông một cái gì hết”. Nghe tôi nói một chập như thế y cáu hỏi tôi “ông tính xin vào Mỹ làm chính trị hả?” Tôi nói tôi không có khả năng làm chính trị. Y hỏi tôi đã đi học bên Mỹ chưa? Tôi bảo
chưa, y lại hỏi tôi đã làm cho cơ quan Mỹ nào ở Việt nam chưa. Tôi cũng bảo chưa. Thế là y nói “Ông không có một ưu tiên nào để vào Mỹ hết. Tôi khuyên ông đi Pháp”, tôi cáu tiết nói “ tôi không cần lời khuyên của ông. Tôi chỉ xin ông cứu xét lá đơn của tôi một cách công bằng”. Rồi tôi đi về. Hai hôm sau tôi nhận được tờ bảo lãnh của dân biểu Norman Lent viết trên giấy có ăng tết (entête) “Congress of the United States of America”, tôi đem đến tính đưa cho phái đoàn Mỹ để bổ túc hồ sơ. Tôi gặp một cô gái Mỹ trẻ đẹp, tóc vàng óng ánh dài chấm mông, chân đi đất, trông như một nàng tiên, tôi liền nhờ cô làm một phô-tô-co-pi bổ túc hồ sơ và cho lại tôi bản chánh. Cô cầm lá thơ đọc, xong cô bảo tôi chờ. Cô đem lá thơ ấy đưa cho tên Mỷ đen hôm trước phỏng vấn tôi. Tôi thấy sắp sửa có chuyện nên chuẩn bị tinh thần để đối đáp với tên này. Y ra nhìn tôi, nhớ ra tôi, cười lịch sự rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Tôi chưa hiểu chuyện gì đã xẩy ra thì y nói “ How did you get to know this big shot?”. Tôi liền nói dóc “He’s a friend of mine. We met in Saigon” Y nói “I’ll have your application processed immediately. You are admitted to the US.” Tôi vênh mặt lên nói “Thank you for your quick response! I appreciate it.” Rồi tôi đi về nhà như cờ nở ra trong bụng. Tôi nghĩ “Mẹ kiếp! có thế chứ!” (Tôi xin lỗi bạn đọc vì lối ăn nói cu li xích lô của tôi).
Những ngày hôm sau tôi ra cái bảng trước văn phòng của phái đoàn Mỹ, dương mắt ra nhìn xem có tên mình hay không, nhưng không thấy có, lòng đã buồn buồn, nhưng không muốn đến hỏi lại xem sao. Thôi đành chờ vậy. Chừng bốn năm ngày sau quả nhiên tôi có tên đi Mỹ, tôi bèn đến cám ơn phái đoàn pháp.
Khi nói với bốn đứa bạn tây ở école sans frontières là Bernard, Christophe, Annie, và Bernadette, thì chúng nói “như thế chúng tao sẽ không gặp lại mày được!” tôi bèn trả lời “C’est ma destinée! J’espère vous revoir en Amérique alors!” (Đó là cái số của tôi. Tôi mong gặp lại các bạn bên Mỹ vậy) Thật ra trong bụng tôi sung sướng vô chừng. Chính ông thầy tôi, thạc sĩ Pierre Catala, người đã nhận bảo lãnh tôi, đã khuyên tôi “Les horizons sont beaucoup plus ouverts en Amérique. Si vous pouvez y aller, n’hésitez pas, cher ami…”(Chân trời Mỹ rộng mở
hơn nhiều. Nếu anh đi được sang Mỹ, anh không nên ngập ngừng …)
Tối hôm đó tôi đổi một đô la ra hai mươi bát (baht, tiền Thái) và tôi ra cái chợ kia ngồi vào ăn một tô hủ tiếu và uống một chai bia để ăn mừng một mình! Ôi tôi thấy cuộc đời tôi đã khởi sự nhuộm mầu hồng, không còn đen như mõm chó nữa.

Sang Panatnikhom Transit Center

Ngày tôi thấy tên tôi trên danh sách cũng là ngày tôi được biết rằng đến hai mươi bẩy tháng bẩy tôi sẽ chuyển sang tơ răng dít sen tơ (Transit Center), nơi tôi được khám sức khỏe và chờ ngày đi đảo. Đi đảo đây không phải là bị đầy ra đảo. Đảo đây là đảo Ga Lăng bên Nam Dương, gần Tân Gia Ba (Singapore), nơi các dân tị nạn bên Thái được đi Mỹ phải qua ở đó chờ một thời gian trước khi được lên lít-đờ-vôn (liste de vol) tức là danh sách những người được lên máy bay. Như thế tôi đả phải ở tại tờ-răng-dít xen-tơ có bốn ngày.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Best WordPress Themes