Trại NW9 được thiết lập ngay tại vùng biên giới
Thái-Miên vào tháng tư năm một ngàn chín trăm tám mươi cho riêng những người tị
nạn Việt nam, mặc dù có một số ít người Miên, người Hoa và người Lào. Trại này
đóng cửa khoảng hơn một năm sau đó, vào tháng bẩy năm một ngàn chín trăm tám
mươi mốt và đã bị thiêu hủy. Trại được quản lý trên nguyên tắc bởi tổ chức
UNBRO (United Nations Border Relief Operation) tức là cơ quan thuộc liên hiệp
quốc cứu nạn
tại vùng biên giới Thái-Miên. Nhiều cơ quan từ
thiện cũng đã hoạt động giúp người tị nạn tại NW9 như là CRS (Catholic Relief
Services), IRC (International Rescue Committeee), MSF (Médecins Sans Frontières)
và ICRC (International Committee of the Red Cross).
Vì trại
nằm trên đất Thái nên có một lực lượng thũy quân lục chiến Thái do một thiếu tá
tên Viroh Tobias lãnh đạo đứng ra bảo vệ an ninh chống lại những vụ truy kích của
bộ đội Việt Nam. Tôi nghe nói những lúc cao nhất trại có đến năm ngàn người tị
nạn và khi trại đóng cửa, dân tị nạn được chuyển tới Panat nikhom một phần và tới
trại Sikev một phần.
Khi tới NW9, tôi được đưa đến nơi ban đại diện trại đón
tiếp những kẻ xin gia nhập trại. Đó chỉ là một căn nhà lá nhỏ ở lối vào trại,
trên một con đường đất đưa đến một cây cầu nhỏ băng qua một giao thông hào vào
bên trong. Giao thông hào chạy xung quanh trại là vết tích của thời kỳ trước
khi mà trại thường hay bị pháo kích vào và đôi khi các lực lượng kình địch tại
khu biên giới xáp chiến rồi bộ đội Việt nam truy kích đến tận cửa trại, buộc
dân trong trại trốn xuống giao thông hào hay phải tản cư.
Tại văn
phòng tiếp đón, một số người vượt biên đường bộ cũng đã có mặt ở đó. Từng người
một, chúng tôi bị kiểm tra lý lịch để biết chắc chúng tôi không là cộng sản. Những
lính cộng sản vượt biên đều bị chuyển đến trại tị nạn Sikev nơi đây, tôi nghe
nói, họ bị nhốt để điều tra cả sáu bẩy tháng và sau đó tùy trường hợp được cứu
xét để được hưởng chế độ tị nạn.
Đến lượt
tôi, tôi được phát giấy tờ để khai lý lịch và sau đó bị tra vấn. Tôi khai trước
tháng tư
năm bẩy
mươi lăm tôi làm phụ khảo tại đại học Luật Khoa Saigon nên ban tiếp đón đặt trọng
tâm những câu hỏi vào trường Luật. Tôi nghĩ trong đám bốn, năm người trong cái
gọi là “ban đại diện trại” đang ngồi oai vệ hoạch họe tôi, có một hai người biết
về cái trường Luật ở Saigon thời xưa.
Như thế tôi được hỏi nhiều câu về cái trường
thân yêu của tôi, như ai là khoa trưởng, ai là trưởng bộ môn này bộ môn kia, ai
là tổng thư ký, ai dạy môn này môn kia, tôi làm ở đó có biết
người
này người kia hay không, tôi về làm phụ khảo từ năm nào, ai làm phụ khảo cùng với
tôi,
trước đó tôi làm gì, vân vân.. Tôi đã trả lời
thoả đáng những câu hỏi đó và được cấp cho một số căn cước là TC #155905. Rồi
tôi được chỉ đến chỗ phát những đồ cứu trợ như xà bông, khăn mặt, bàn chải đánh răng, giấy viết thơ,
bút viết …
Sau đó tôi về nơi tôi được chỉ định tạm trú trong thời
gian ở NW9. Đó là một căn nhà tranh dài cả trăm thước chỉ che có ba mặt, còn mặt
trước để trống. Căn nhà làm có tính cách tạm thời cột chống bằng tre, chia ra
làm từng phòng ngang khoảng ba thước, mỗi căn như thế có ba hay bốn người ở.
Căn tôi đến đã có hai thanh niên là hai anh em Hải và Thiện trú ở đó rồi.
Khi thấy tôi khập khiểng tiến tới, vẻ mặt bơ
phờ như người mất hồn, Thiện không tránh khỏi rũ lên cười. Căn phòng ấy trống
chơn, chỉ có nền đất, chẳng hơn gì những nhà tranh dựng lên tại những khu kinh
tế mới. Để có chỗ nằm nghỉ hay nằm ngủ dân tị nạn lấy những bao gạo xé ra làm
thành võng, treo giữa các cột tre.
Tôi mới đến chẳng biết u tê gì, rất may được
Thiện thương tình giúp đỡ. Anh lo đi xin bao tải về làm võng cho tôi. Anh nói
chuyện với tôi cho tôi đỡ buồn, những ngày ở NW9 không có Thiện, tôi không biết
tôi sẽ cô đơn thế nào. Chúng tôi ăn cơm với nhau, ngồi tâm sự với nhau, tôi
giúp chỉ cho anh ít anh văn, anh giúp tôi đi lấy thức ăn và nước uống. Tôi nhớ
mỗi ngày chúng tôi chỉ được có sáu lít nước để dùng trong mọi việc, nấu cơm, giặt
rũ, tắm rửa. Sau này chuyển sang mùa mưa chúng tôi bớt phải lo vấn đề nước. Từ
ngày sang Mỹ, nhiều lần tôi cố hỏi thăm mà không bìết giờ này anh ở đâu.
Tôi ở trại này bốn mươi bẩy ngày, thời gian đau đớn nhất
trong cuộc đời tị nạn. Tôi thường trực bị lương tâm cắn rứt vì tôi đã ra đi để
lại đứa con nhỏ, sống chết ra sao không biết, ở phía bên kia biên giới. Đêm đến,
hình ảnh cháu bơ vơ một mình chống trọi với bao nhiêu khó khăn nơi đất lạ quê
người, cứ lởn vởn trước mắt tôi làm tôi không làm sao chợp mắt cho được. Tôi
thường ra ngồi một nơi vắng vẻ nào đó, tay cầm điếu thuốc, mắt nhòa những lệ,
tưởng tượng ra nếu tôi là cháu thì bây giờ tôi phải ra sao, phải làm gì để mà
sinh tồn, để mà báo tin hay tìm đường về nhà? Và tôi cứ nghĩ luẩn quẩn, không
giải quyết được gì, để rồi ngày hôm sau nó vẫn như thế, vẫn trở lại ám ảnh tôi.
Tôi không nhận được tin gì mới từ những vị bác sĩ làm việc tại
Nông Chan. Họ đả từng hứa với tôi rằng họ sẽ
cố gắng nhờ những người Miên dọ hỏi tin tức về cháu bé cho tôi và giúp tôi đưa
cháu qua biên giới đến NW9 để hội tụ với tôi. Nhưng tôi nghĩ chẳng có kết quả
gì.
Thêm
vào đó có tin nói rằng chính phủ Thái chuẩn bị đóng biên giới, không cho những
dân tị nạn, nhất là người Việt, sang bên đất Thái nữa. Dân Thái cũng như dân
Miên vốn không có cảm tình với dân Việt, nay lại thường xuyên có những cuộc vi
phạm biên giới do bộ đội Việt đóng quân bên Kămpuchia, nhà cầm quyền Thái lại
càng khắt khe hơn. Tôi cảm thấy rất may mắn đã sang được tới nơi đây, nhưng con
tôi thì sao? Nếu cháu bị cầm tù một hai tháng tại Xi xô phôn rồi được thả ra,
thì cháu cũng sẽ bị trở ngại khi muốn vượt biên sau khi lệnh đóng cửa
đã được
chấp hành.
Và tôi cũng chẳng nhận được tin tức gì từ Saigon, vì thơ
từ qua lại rất chậm chạp, có khi cả tháng một lá thơ gởi đi mới đến tay người
nhận. Nhiều lần tôi phãi gởi qua trung gian một nước thứ ba có liên hệ ngoại
giao với cộng sản Việt Nam, như Pháp chẳng hạn. Sự khó khăn liên lạc với bên
nhà làm tôi vốn đã sốt ruột lại càng sốt ruột hơn, tôi cứ như ngồi trên lửa mà
không tìm được sô nước để dập tắt ngọn lửa đang nung nấu đít tôi!
Tình trạng bê bối trong việc quản lý trại, việc
ban đại điện ăn trộm ăn cắp đồ tị nạn cung cấp cho dân trong trại để đem bán, sự
việc những tên trong ban điều hành hổng hách, quấy nhiểu dân trong trại, cắt
xén đồ phát ra, ăn chặn cơm cháo của dân, thông đồng với những tên lưu manh
trong đám dân tị nạn để buôn lậu bán chợ đen, v.v… làm tôi càng nhụt chí và quả
thật con người ở nơi nào cũng tham lam, bất nhơn, vô tư cách, không phải chỉ
trong cái thế giới cộng sản. Ở đâu con người cũng coi trọng đồng tiền, cũng cần
đồng tiền để mà có hạnh phúc ấm no. Chẳng thế mà trong trại tị nạn NW9 bao
nhiêu đàn bà con gái nhà lành đã chịu làm đĩ, đi ngủ đêm với những kẻ có quyền
hành trong trại hay những kẻ có tiền do người nhà ở ngoại quốc gởi cho, để có
cái vật chật cần thiết thỏa mãn nhu cầu thể xác của họ. Ở bất cứ nơi nào, khi
con người cùng cực thì nó đả trở thành con vật, không còn lương tri, không còn
trí khôn, chỉ còn bản năng hưởng thụ. Hịện tượng đó thật rỏ ràng nơi cái trại
vùng biên giới ấy.
Những lúc rảnh rổi, tôi
hay tới ngôi trường nhỏ trong trại lập lên để dạy cho những ai muốn học một ít
sinh ngữ trước khi đi định cư. Tôi làm quen với người trông coi cái ngôi trường
ấy và những người tự nguyện dạy tại nơi đó miển phí cho học viên. Tình cảm gắn
bó con người với con người, và sinh hoạt nơi ngôi trường đậm tình anh em. Khi
người đứng lo cho ngôi trường được giấy chuyển trại, anh biết tôi cũng là thầy
giáo nên nhờ tôi giúp đỡ làm công việc kế tiếp thay anh. Tôi đang buồn và không
có viêc gì làm nên nhận. Tôi không hay rằng khi nhận làm công việc ấy, tôi có
được chút bổng lộc, như được ở ngay tại ngôi trường, nơi đây có một căn phòng
khá tươm tất cho hiệu trưởng trong đó có chõng tre, có nhà bếp, có thùng chứa
nước tắm. Ngoài ra, mỗi ngay tôi được một khẩu phần do hội từ thiện Ke thô lích
che ri ti (Catholic Charities) cho, ngoài phần cơm với cá hộp của mỗi dân tị nạn.
Tôi dạy cả tiếng pháp cho những ai tính đi pháp và tiếng anh cho những ai tính
đi Mỹ hay đi Úc. Trong hoàn cảnh khó khăn của người đi tị nạn, tình thầy trò
càng thắm thiết, làm tôi bớt suy tư và bớt buồn, ít ra lúc ban ngày khi bận bịu.
Nhưng về
đêm những lo âu và suy tư vẫn gậm nhấm hồn tôi cho đến ngày tôi rời trại NW9 để
đi Chonburi, khi tôi nhận được tin cháu bé đã về đến Saigon và đang bị nhốt ở
nhà tù trung ương Chí Hòa. Tuy còn đau buồn vì cháu vẫn phải đi tù, nhưng ít ra
là cháu còn sồng sót và đã khôn ngoan tự mình tìm được đường về đến Tây Ninh, để
rồi lại bị bọn công an bắt giải về Saigon, tính làm tiền chúng tôi. Nhưng vợ
tôi không còn tiền để chạy và chúng tôi nghĩ trước sau gì thì chúng cũng phải
thả thằng bé ra, vì không ai bỏ tù một đứa bé mười hai tuổi lâu quá một hai
tháng.
Nhưng chúng tôi đã lầm. Bọn khốn nạn đó, không ăn được tiền
của chúng tôi, đã trả thù và nhốt cháu bé sáu tháng trời! Lòng dũng cảm của
cháu bé đã thể hiện qua sự chịu đựng bền bỉ và sự khôn ngoan, cháu đã lợi dụng
khả năng nhào lộn của mình để giúp vui cho những người trong tù và được bà con
thương mến, cho ăn thêm quà trong khi bọn cai tù không cho mẹ cháu tiếp tế thực
phẩm.
Ngày cháu được thả về, cháu gầy gò ghẻ lở,
lúc gọi cửa, mẹ cháu lại tưởng là một tên ăn mày, xua tay đuổi, cho đến khi
cháu lên tiếng “ mẹ ơi, bé đây này!” (bé là tên ở nhà gọi cháu) thì mới nhận ra
con mình! Ôi thật là đứt ruột đau lòng!
Nói về NW9, tôi còn vài ba kỷ niệm tô đậm đoạn
đầu của cuộc hành trình đi tị nạn của tôi. Khi tôi nhận quản lý ngôi trường nhỏ
bé ấy, thiếu tá Tobias, người đặc trách an ninh trại, gọi tôi lên văn phòng
ông. Ông muốn tôi mỗi ngày nửa tiếng dạy ông nói tiếng Việt. Thật là một chuyện
ngạc nhiên vì bình thường người Thái
không ưa người Việt và họ thường nói tiếng Miên khi liên lạc với chúng tôi rồi
kiếm một tên Miên biết tiếng Việt thông dịch. Như thế, mỗi khi tôi lên dạy xong
buổi học, tôi thường được ông tặng vài cái kẹo, bao thuốc, ít gói đường hay cà
phê nho nhỏ, và như thế cuộc đời tôi thấy bớt khổ. Vì thời gian tôi ở NW9 quá
ngắn, tôi chưa kịp nhận được tiền viện trợ của bà con thân thuộc ở ngoại quốc,
những ngày không có cà phê thuốc lá, tôi thấy cuộc đời tôi thiếu thốn làm sao!
Mười ngày trước khi có tin được chuyển trại,
vì cứ đinh ninh là sẽ phải chờ cả năm tại NW9, tôi đã được một người quen giới
thiệu đi làm thông dịch viên cho một cơ quan tình báo hổn hợp Mỹ Thái. Cơ quan
này đưa nhân viên đi phỏng vấn những tên bộ đội vượt biên hiện bị giữ điều tra
tại nhiều trại tị nạn ven biên, và nhất là tại trại Sikev. Tôi đã gặp nguời Mỹ
phụ trách tuyển người, và được cho biết mỗi tháng được năm trăm đô la lương,
nhưng số tiền này không được lãnh ra mà phải để trong một chương mục, khi đến Mỹ
mới được sử dụng. Thời gian ở Thái tôi được lo cho ăn ở đàng hoàng, không tốn
kém gì hết và phải ký hợp đồng hai năm. Như vậy không còn vấn đề phãi xin đi tị
nạn, sau hai năm muốn làm tiếp thì làm, nếu không, thì đương nhiên được cho đi
Mỹ. Tôi đã xin một tuần để suy nghĩ và đã tính nhận thì có tin tôi được lên
danh sách đi Chon bu ri để làm giấy tờ đi một đệ tam quốc gia. Do vậy mà tôi đổi
ý định, không nhận công tác đó nữa.
Sau khi ở trại NW9 được một tuần, tôi đã mần
mò làm quen được với một số nhân viên Hồng Thập Tự quốc tế làm việc tại đấy. Cứ
đến cuối tuần là họ về Băng Cốc. Và trước khi họ đi, tôi nhờ họ gởi hộ thơ qua
hội HTTQT nên không mất tiềm tem. Như thế tôi gởi thơ xin cầu cứu được tới cả
chục người ở Thái lan, Tân Gia Ba, Pháp và Mỹ, những người này là bạn của bác
và cô tôi ở Saigon. Trong số những người tôi viết thơ cho có Lý Quang Diệu, cựu
thủ tướng Tân Gia Ba, Thanat Khoman, cựu thủ tướng Thái Lan, lúc đó là thượng
Nghị Sĩ ờ Băng Cốc, Bác sĩ Gellerman và Dân Biểu Norman Lent ở Nữu Ước, Bác sĩ
C. C. Congdon, thấy của cô tôi khi bà đi du học ở Hoa Kỳ, Thạc sỉ giáo sư
Pierre Catala ở Đại Học Luật Khoa Paris, và Giáo Sư Tiến Sĩ Luật Varee
Vichayanonta ở Đại Học Luật Khoa Bangkok. Sau đó tôi nhận được những thơ nhận đỡ
đầu của Bác sĩ Gellerman, Dân Biểu Norman Lent, và giáo sư Pierre Catala. Giáo
Sư Varee Vichayanonta đã đích thân lái xe xuống tận trại NW9 thăm tôi cho quà
và tiền. Giáo sư Varee, đậu tiến sĩ ở Pháp, là bạn của cô tôi. Bà nói chuyện với
tôi bằng tiếng pháp, thân tình hỏi thăm cô và bác tôi còn ở lại Saigon. Bà cũng
tỏ ra lo lắng cho tình trạng của tôi lúc bấy giờ. Tôi đã cảm động, thành thật
cám ơn bà và xin nhận quà nhưng từ chối nhận tiền. Sau này khi lên Băng Cốc bà
còn đón tôi đi chơi và đưa về nhà. Thật là một nghiã cử tốt mà tôi vẫn còn nhớ
cho đến ngày nay.
Thế rồi cái gì phải đến đã đến. Ngày mười hai tháng sáu,
tôi cùng với khoãng một trăm năm chục người tị nạn khác rời NW9 đến trại Pa nát
ni com hâu đinh sen tơ (Panatnikhom holding center) ở tỉnh Chon bu ri. Phái
đoàn của toà đại sứ Mỹ ở Băng Cốc, trong đó có một phụ nử Việt trẻ đẹp, mà ai cũng
biết tiếng trừ tôi, là bà Chấn, cũng có mặt trong buổi chuyển trại này. Nhân
viên hội Hồng Thập Tự quốc tế đã điều động cuộc ra đi. Chúng tôi lên xe buýt đi
lúc mười một giờ ba mươi sáng và xe chạy vù vù qua một vùng quê Thái trông
không khác vùng quê ở miền tây nước mình, với những ruộng lúa chín vàng, thẳng
cánh cò bay. Xe đi hơn ba trăm cây số và đến nơi lúc hai giờ ba mươi trưa. Nhìn
trại Pa nát ni com, tôi thấy phấn khởi, vì trại khang trang và đẹp mắt hơn NW9
nhiều.
0 comments:
Post a Comment