April 30, 2008
30-4
April 26, 2008
Ban Dai Dien Dongrek
(Bac Lam Ne van dang song manh khoe o tp Oakland, Cali)
Be a better friend, newshound, and know-it-all with Yahoo! Mobile. Try it now.
April 21, 2008
Nguoi Y Si KCQ Viet Nam
DD-2nd G
LTG: Thắp nén hương lòng tưởng nhớ người trí thức, BS Nguyễn Hữu Nhiều. Một người không quen biết, hay cùng trại tị nạn hoặc là chiến hữu…
Sáng sớm đến sở làm thì nhận được e-mail của anh Phạm Hoàng Tùng (PHT), tác giả cuốn hồi ký kháng chiến: "Hành Trình Người Đi Cứu Nước". Anh nhắn là vào website: "ttnbg.blogger.com", để xem chân dung của Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều được đăng trên mạng như đã nói qua trong hồi ký của anh. Ngày nhận được e-mail rơi trùng vào Thứ Sáu ngày 29, tháng 2 năm 2008. Không biết đây là ngày vui hay là ngày buồn? Vì năm nay là Năm Nhuận chỉ đến mỗi chu kỳ 4 năm một lần.
Sài Gòn Nhỏ, tuần báo phát hành ở Nam California có đăng một bài viết của Luật Sư Hoàng Duy Hùng ở Texas, USA vào năm 2000? Ông ta lên tiếng đả kích Đảng Việt Tân đã bưng bít che dấu sự thật hơn 13 năm (1987 - 2000) về cái chết của ông Hoàng Cơ Minh và ban lãnh đạo Mặt Trận đã bỏ mình trong chiến dịch Đông Tiến II vào những ngày cuối tháng 8 năm 1987. Bài viết được đăng hai hay ba kỳ phát hành. Nội dung nói rõ chi tiết ẩn khúc theo lời tường thuật của vài cựu kháng chiến quân đã vượt thoát ra hải ngoại. Trong bài viết của ông có đề cập đến cái chết bí mật của Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều. Đoạn văn ngắn gọn "shock" người như sau: "Bác Sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, vị bác sĩ duy nhất của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (MT HCM) bị tử hình ở khu chiến"! Vị luật sư này không nêu ra lý do và giải thích trong bài viết của ông. Người đọc lúc đó có nhiều suy nghĩ và thắc mắc là tại sao lại xảy ra sự việc đau thương đến cho một vị trí thức đã tình nguyện dấn thân gia nhập mặt trận từ trại tị nạn Dongrek Camp,Thái Lan vào đầu năm 1985?
Vào thời điểm bài viết của Luật Sư Hùng được đăng trên mặt báo Việt Ngữ ở hải ngoại. Có rất nhiều độc giả và đồng hương đóng góp yểm trợ tài chánh cho MT còn quan tâm đến hiện tình đất nước, muốn tìm hiểu sự thực về MT HCM và số phận của những KCQ VN bấy giờ ra sao? Chẳng ai được biết và cũng chẳng có bài viết nào nói về họ. Tin tức lu mờ chôn theo dòng thời gian, ngay cả ở những quốc gia tự do bậc nhất về mặt báo chí như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại hay Úc Đại Lợi.
Sự thật bí mật về MT HCM có lẽ được phơi bày phần nào trong cuốn hồi ký kháng chiến của tác giả PHT(cựu KCQ VN) được xuất bản vào đầu năm 2006. Trong cuốn hồi ký này độc giả được biết thêm chi tiết liên quan đến số phận và cái chết hẩm hiu của BS Nguyễn Hữu Nhiều. Anh PHT tường thuật thời gian huy hoàng của BS Nhiều lúc mới gia nhập mặt trận, lẫn tháng ngày bị thất sủng. Ông để lộ vẻ bất mãn đến ban lãnh đạo MT và tìm đường chạy trốn với hy vọng trở lại trại tị nạn biên giới. Nơi đó không biết người vợ và các con của ông có còn lưu trú nữa không? Hay là đã lên đường đi định cư ở một đệ tam quốc gia và làm lại cuộc đời mới không có ông trong đời?
Cũng có lẽ MT hứa hẹn với BS Nhiều là sẽ cất nhắc ông vào chức vụ Bộ Trưởng bộ Y Tế của chính phủ Việt Nam do ông Hoàng Cơ Minh lãnh đạo sau này? Nếu như đất nước giành lại được từ tay người CSVN? Đâu có người trí thức nào đến được trại tị nạn cùng với vợ con mà lại đi trở vào rừng rú không có hứa hẹn ngày mai? Tương lai của người bác sĩ y khoa là đến những quốc gia tự do và lấy lại bằng cấp. Đi làm cho nhà thương thêm vài năm và mở một phòng mạch khám bịnh sau này. Đời sống tuy không phong vương giàu có nhưng cũng đủ để liệt vào giai cấp middle- class ở xứ người. Đời người sung sướng bên vợ đẹp và con khôn? Ai nào ngờ lại rơi vào tình trạng bi thảm như vậy?
Cho nên có mấy cựu sĩ quan cấp lớn của QLVNCH hay các bậc trí thức khác khi đến được trại tị nạn trong thập niên 1980 lại đi tham gia kháng chiến. Vì đi kháng chiến phải chịu khổ và nhiều hy sinh. Chỉ có người trí thức duy nhất, BS Nguyễn Hữu Nhiều là khác biệt với các người cùng giai cấp. Ông không màng vinh hoa phú quý đang chờ đợi ông ở ngưỡng của chân trời mới. Một viên ngọc quý đáng lẽ phải được trọng dụng đúng vị thế, mới hữu sự? Ai lại trở thành người gác rừng? Rồi mang ra tử hình để làm gương cho những KCQ khác nếu ai còn có ý đồ bỏ trốn khỏi khu chiến?
Rời Dongrek, Anh ra đi vì lý tưởng
Tìm về lại Dongrek, sao thật xa xôi ?
Từ ngày ông bị giết chết nơi rừng thiêng nước độc ở biên thùy Thái Lào. Địa danh không rõ ràng. Không một nấm mồ hay chứng tích có thể tìm kiếm dễ dàng được. Đến nay chắc cũng đã hơn 23 năm rồi? Không biết vợ con của ông có bao giờ có ý nghĩ đi tìm hài cốt của ông không? Những người con của ông giờ đã khôn lớn và thành tài? Có lẽ họ sẽ không tìm được tất cả xương cốt của người thân mình. Nhưng ít ra họ có thể làm vong linh người cha quá cố được siêu thoát và an nghỉ ngàn thu dưới suối vàng. Nếu có thành ý như vậy thì hay biết mấy?
Nhân bài viết đây, xin thắp nén hương lòng cầu cho tâm linh của vị bác sĩ KCQ VN duy nhất (xin miễn đề cao MT) về cõi vĩnh hằng hay nước trời. Cũng dâng lời cầu nguyện đến tất cả các KCQ VN bất hạnh đã, "Vị quốc vong thân" (không được truy điệu bởi MT), nay không một ai còn nhắc nhở tới trong lịch sử cận đại sau năm 1975?
Hình dung trong giấc mơ, vong hồn BS Nguyễn Hữu Nhiều trổi dậy và tìm về lại trại tị nạn Dongrek Camp cho dù trại đã đóng cửa lâu rồi. Nghe văng vẳng trong làn gió rừng ngút ngàn có tiếng oan hồn ai oán hát một bản nhạc tiếc thương với cung trầm buồn tỉ tê đứt đoạn không hoàn nguyên văn lời, giống như hình hài của ông vậy…
Ánh đèn vàng hiu hắt
Khói trầm hương ngây ngất
Anh nằm đó sao không cười không nói!
Anh ra đi như mây bay trên trời
Đời này đầy những thương đau
Anh ra đi bến phương nào …
(ghi theo trí nhớ)
April 20, 2008
Hành Trình Người đi Cứu Nước: Danh Sách Kháng CHiến Quân
Các bạn tị nạn: Đây là một tài liệu độc nhất vô nhị, vô cùng quý báu của anh Phạm Hoàng Tùng. Các bạn muốn biết rỏ hơn về chuyện kháng chiến, hay thân phận những bạn bè người quen từng một thời chung trại tị nạn, xin mua đọc bộ sách "Hành Trình Người Đi Cứu Nước"của anh Phạm Hoàng Tùng có bán tại các nhà sách Việt.
Địa chỉ email của anh Phạm Hoàng Tùng:
April 18, 2008
BS Nguyen Huu Nhieu
Hi anh Darren:
Xin anh goi lai lan nua.
Blog does not work with text in attachment (only attached picture would work). Attached file will not arrive to blog (nobody see it at all)
To post blog by email, the text must be in the email. ANh co the copy all the text and paste it in your email (hay anh co the cho minh email cua anh, minh se lien lac voi nhau bang email thuong)
Sorry for the confusion
Hung
April 17, 2008
BS Nguyen Huu Nhieu (Final)
April 16, 2008
Pictures at site II
April 15, 2008
Nguoi Y Si KCQ VN
Chào anh Hưng,
Tôi tên Darren. Gởi anh sáng tác: "Người Y Sĩ KCQ Việt Nam". Xin đăng với bút hiệu: DD-2nd G.
Là độc giả của anh PHT. Nhỏ hơn vài tuổi. Diện cựu thuyền nhân. Anh ta cho địa chỉ website của anh.
Mạn phép lấy hình BS Nhiều để đưa vào bài viết cho dễ hiểu.
Bài hát có tên "Donna" ? trong cuốn Asia 56 "Tình Hè Rực Rỡ" mình nghe qua nhưng không có DVD để kiểm lời. Không biết anh có nghe qua để chỉnh lại vài chữ cho đúng trước khi đăng? Không thì biết sao viết vậy.
Chào anh thân ái!
April 08, 2008
Hồi Ký Của Ông Lê Bá B: Trại Tị Nạn Ở Gần Nhà Thương Non Chan, Khu Thứ Hai
(Loạt bài này lấy từ sách online "Vượt biên đường bộ tìm tự do" từ website http://memaria.org)
Part 4: Trại Tị Nạn Ở Gần Nhà Thương Non Chan, Khu Thứ Hai
Lúc ấy là ngày thứ tư 22 tháng 5, năm 1982. Từ trại tù đến nhà thương Non Chan chỉ độ một cây số. Nhà thương này được hội HTTQT cấp thuốc men và y sĩ để chữa bịnh cho nhân dân Miên. Khu trại chứa dân tị nạn Việt Nam này nằm ở sát bên cạnh nhà thương, nhưng ở về phía sau của nhà thương.
Trại này chứa những người tị nạn từ các trại tù ở Non Chan hay ở Pnom Chat mà đã được bọn Para chấp thuận cho hội HTTQT mang đi. Tại trại mới này có một nhân viên hội HTTQT người Thái rất tốt. Ông ta căn dặn chúng tôi chớ nên ra khỏi vòng rào trại vì nếu ra đó sẽ bị bọn Para bắt nhốt vào tù là khỏi đi được nữa.
Chỉ có một số những người tị nạn người Việt gốc Miên, thường được gọi là ”Chrom” là có thể lén ra đi lại vì họ biết tiếng Miên nên không ai biết họ là dân tị nạn. Số người Việt gốc Miên này đã bị bọn Para dụ dỗ để ở lại đó làm việc cho chúng. Để làm cho họ vững tâm ở lại, Para đồn là ở trại NW 82 cũng rất khổ cực, lại không được cứu xét cho đi Mỹ, rằng đã có người ở trại NW 82 mấy năm vẫn không được đi, vậy thì đến đó để làm gì? Rồi lại còn bị nạn lính Thái hành hạ nữa.
Chính vì đòn tâm lý ấy nên một số đông người Việt gốc Miên đã ở lại làm việc cho bọn Para. Nếu họ chọn ở lại với chúng mà sau này họ trốn đi thì cũng bị Para giết chết.
Tại trại tị nạn gần nhà thương Non Chan này, lúc đầu chúng tôi tưởng là đã an toàn hơn nhưng khi nghe ông nhân viên HTTQT tên là Kông, người Thái Lan dặn dò là con gái không nên sửa soạn son phấn, không nên đi ra ngoài và cũng không nên nằm sát cửa là chúng tôi sợ rồi. Ông Kông lo nhiệm vụ phát mền, chiếu, thực phẩm cho dân tị nạn.
Thế là ảo tưởng tan tành rồi, những tưởng là có tai mắt của Hội HTTQT thì đỡ hơn. Nơi này, từ 4:00 giờ chiều trở đi, khi nhân viên hội HTTQT rút về biên giới Thái, thì lại thuộc quyền sinh sát của bọn Para người Miên.
Y như rằng, tối hôm ấy, bọn Para vào lều lôi kéo và bắt phụ nữ đi hãm hiếp. Nơi trại này có một tên Para phụ trách an ninh tên là Thi. Hắn nổi tiếng là hung thần. Hễ nghe đến tên hắn là dân tị nạn ”tản thần”, sợ rởn tóc gáy. Thi chuyên môn ”điều tra” vào ban đêm, ngay lúc nửa khuya. Cũng nên hiểu việc ”điều tra” là hãm hiếp, hành hạ, đánh đập để thỏa mãn thú tính và để khảo của.
Hễ nửa đêm là giờ quỷ sống Para tung hoành. Đối với tù nhân đến từ Non Chan qua thì ít bị đánh đập và khảo của vì chúng đã lột sạch tiền của từ lâu rồi. Nhưng đối với những nạn nhân tị nạn từ các nơi khác đến như từ Pnom Chat hay những trại khác thì bị chúng đánh đập tàn nhẫn để cướp tiền và khảo của. Chúng dùng đinh đóng vào thân thể người ta để tra tấn cho bao giờ thò vàng và tiền ra mới thôi.
Các phụ nữ tị nạn bị hãm hiếp như cơm bữa, nhưng phụ nữ người Miên gốc Hoa thì đỡ bị hành hạ hơn. Cứ đêm đến là những tiếng khóc than nổi lên nghe ai oán và ghê rợn. Nhiều nạn nhân có con nhỏ, khi họ bị lôi kéo để bọn Thi hãm hiếp thì con cái họ khóc la dậy trời.
Hành tung của Thi và đồng bọn thật kinh tởm và khủng khiếp. Đồng bọn của hắn gồm thêm bốn, năm đứa nữa. Vẻ mặt Thi rất dữ dằn. Hắn vừa là y tá trưởng của nhà thương Non Chan, lại vừa là người phụ trách an ninh. Có thể hắn làm việc cho hội HTTQT nên mới giữ được chức vụ y tá trưởng. Nhưng hội không hề biết gì về bộ mặt sát nhân và đểu cáng của hắn khi đêm đến.
Mỗi khi có nhóm dân tị nạn Việt Nam mới tới là bọn lính Para tổ chức hội họp và ra thông cáo. Mục đích của chúng là để nhìn mặt xem nếu có cô thiếu nữ nào đẹp thì ban đêm, chúng sẽ vào lôi kéo để thỏa mãn thú tính. Khi mắt chúng láo liên đảo quanh thì không có con mồi nào thoát khỏi nanh vuối độc hiểm của chúng.
Nạn nhân phụ nữ từ trại tù Non Chan qua cũng vẫn chưa được buông tha. Có một cô gái ở trại tù đã bị chúng hãm hiếp nhiều lần đến bại chân. Nay cô qua trại này và được đi bệnh viện và chữa lành. Còn nhiều cô gái khác thì trở nên bất bình thường vì khủng hoảng tâm lý.
Gia đình tôi sống lây lất nơi trại Non Chan này được khoảng một tháng nhưng cứ tưởng như thiên thu vì bị khủng hoảng đến phát bịnh. Chẳng hiểu tại sao mà Para đối xử tàn tệ với người tị nạn như là kẻ thù truyền kiếp của chúng. Trong khi ấy, các dân tị nạn người Miên gốc Hoa hay người Miên thì được đối đãi tử tế hơn. Chúng luôn luôn đe dọa người Việt tị nạn như sau:
”Hễ Việt cộng mà tấn công thì tụi bay biết tay chúng tao!”
Ngày chúng tôi đến trại này thì nhân số tị nạn chỉ có khoảng hai mươi người. Dần dần nhân số tăng lên rất mau vì dân tị nạn từ các nơi khác đến. Cũng có người may mắn được người dẫn đường đưa thẳng tới khu trại ở gần nhà thương Non Chan nên không phải ở tù như chúng tôi. Nói chung, dù từ bất cứ từ nơi nào đến trại này, kể cả từ các trại của lính Sihanouk, Sonn San hay Pol Pot đều bị chung số phận đen tối như nhau.
Khi gia đình tôi rời trại Non Chan để qua trại NW 82 thì nhân số tị nạn đã lên đến hơn 200 người.
Hồi Ký Của Ông Lê Bá B : Trại Tù Ở Non Chan, Khu Thứ Nhất
Part 3: Trại Tù Ở Non Chan, Khu Thứ Nhất
Khi chúng tôi tới Non Chan là vào buổi trưa ngày 22, tháng 4, năm 1982. Từ xa, chúng tôi thấy những căn nhà lụp xụp làm bằng cỏ tranh, trên có che những tấm ni lông màu xanh da trời. Xa xa, tôi thấy một lá cờ của lính giải phóng Miên, có màu xanh, đỏ và một hình tháp chính giữa. Tôi vì quá mệt nên cũng không còn đủ sức mà nhìn rõ xem màu sắc và hình vẽ của lá cờ như thế nào.
Khi đến nơi, tôi nghĩ là mình đã đến vùng tự do rồi nên lòng mừng khấp khởi. Thế nhưng lại bị một bọn lính Para khám xét nữa để cướp đồ quý. Bọn chúng hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên. Tôi không hiểu mà chỉ ra dấu rằng tôi quá khát và cần nước uống. Nhưng thay vì cho tôi uống nước, chúng lại bắt chúng tôi cởi quần áo để chúng moi móc tìm mọi chỗ, kể cả chỗ kín trong người.
Lúc ấy tôi chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ mặc trong người và một đôi dép râu quai bố (loại dép Bình Trị Thiên). Dù vậy, bọn Para cũng không tha vì chúng nghĩ rằng tôi có thể dấu vàng bạc ở đôi dép ấy. Chúng lấy luôn đôi dép râu của tôi và trao cho tôi một đôi dép Nhật khá tốt.
Sau này, tôi đã khốn khổ vì đôi dép ấy trong những tháng ngày dài sống thiếu thốn ở trại tù Non Chan và trại tị nạn NW 82. Đôi dép cũ mòn hư hao. Tôi đã phải tìm mọi cách để cột đôi quai dép lại cho có thể đi tạm được. Đi chân trần khổ lắm, vừa đau, vừa đạp gai, đạp miểng chai, sâu bọ hay phân người. Tôi cứ tiếc hùi hụi cho đôi dép râu bền chắc đã bị bọn Para lấy mất.
Bọn Para mới dữ dằn vô cùng. Chúng hạch hỏi đủ thứ, kể cả ngày sinh tháng đẻ và cả nơi sinh của chúng tôi để làm thủ tục giấy tờ. Bà chị tôi lúc ấy quá sức sợ hãi nên khai bậy bạ. Chị khai nhiều tuổi hơn tuổi thật. Chị khai lộn xộn hết mà từ đó, tôi không dám điều chỉnh lời khai nữa vì sợ chúng nghĩ rằng mình có ý man trá nên khai tầm bậy. Chính vì thế mà kẹt luôn cho đến khi khai để xin được bảo lãnh, tôi cũng phải khai như lời chị khai.
Làm thủ tục xong, bọn chúng lại giao chúng tôi cho một tên lính dắt đi đến một văn phòng khác ở rất xa. Chúng tôi đi mãi, băng qua một khu chợ. Ở đấy, người ta che các căn nhà lụp xụp bằng lớp cỏ tranh hay bằng tấm vải ni lông xanh.
Khi tới một văn phòng khác của Para, chúng tôi phải ngồi chờ rất lâu ở đó. Thế rồi lại một màn cởi quần áo để khám xét kỹ lưỡng nữa. Bao nhiêu nỗi tủi nhục và cực lòng làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thân phận mình còn bị bạc đãi và coi thường hơn một con chó hay con kiến nữa.
Sau đó, chúng dắt chúng tôi vào một trại tị nạn. Thoạt đầu, chúng tôi tưởng bở, lòng mừng rỡ vì ý nguyện đã thành tựu. Trại tị nạn đây rồi! Ôi ba chữ ” Trại tị nạn” sao nghe vui tai và hay ho đến thế. Nhưng hỡi ôi! khi đến nơi mà gọi là trại tị nạn thì đó chỉ là một nhà tù nhỏ làm bằng tranh, chung quanh đóng cột gỗ và có hàng rào đầy thép gai.
Nhìn vào trong nhà thì thấy rất nhiều người đứng lố nhố, đặc biệt là đàn ông và con nít đều ở trần. Mọi người đứng trong vòng rào kẽm gai nhìn ra. Trông ai cũng đen đúa như một đám mọi đen đói vì ai cũng ốm dơ xương ra. Tôi thấy mình chới với ngay:
”Trại tị nạn gì mà kỳ cục quá, khủng khiếp quá!”
Hình ảnh thực tế của trại tù Non Chan đập mạnh vào mắt tôi.
”Đây là trại tị nạn đó sao? Trại chỉ toàn kẽm gai và đám người bị tù túng, đói khổ như thế này! Thôi rồi, thiên đường của dân tị nạn đường bộ là đây sao?”
Mộng ước sụp đổ tan tành ngay lập tức. Chúng tôi bị xúc động về hình ảnh đau thương trước mắt. Chúng tôi không thể mở miệng mà hỏi han hay nói chuyện với ai cả, chỉ còn biết đứng ngây ra nhìn mà thôi. Sự thật phũ phàng quá! Bao nhiêu cực khổ dọc đường không làm cho chúng tôi chán ngán bằng hình ảnh cái trại tù Non Chan ấy.
Liền đó, tên lính mở dây xích khóa cửa tù để tống ba chúng tôi vào đó. Tống giam xong, hắn cẩn thận khóa cửa để đi về. Địa ngục là đây rồi! Lúc ấy, nhằm lúc bọn tù đàn ông đi làm lao động hết rồi, chỉ còn bọn tù đàn bà, con nít và một số đàn ông bịnh hoạn ở lại trại giam này mà thôi.
Khi chúng tôi bị tống vào trại, trong đó ai cũng nhìn chúng tôi bằng đôi mắt thương hại. Họ ở đó lâu qúa rồi, và họ đã nếm đủ mùi cực khổ rồi. Bây giờ chúng tôi cũng lại lao đầu vào chốn địa ngục trần gian ấy nên họ thương hại.
Lúc chúng tôi nhập trại thì trời đã quá trưanên ai cũng ăn cơm hết rồi. Theo lời họ kể thì cơm là do bọn tù đàn ông đi làm lao động khổ sai rồi để dành cơm đem về cho vợ con ở kẹt trong tù. Cơm chỉ ăn với muối trắng mà thôi.
Chúng tôi quá tuyệt vọng và mỏi mệt nên chẳng ăn được mà chỉ khát nước mà thôi. Một vài người đàn bà tốt bụng đã cho chúng tôi vài ngụm nước. Sau này tôi mới thấy rằng họ đã quá tốt với chúng tôi, vì nước trong tù rất hiếm và qúy còn hơn là vàng nữa.Tình đồng hương, đồng cảnh ngộ thật đáng ngợi khen. Ở trong tù không có nước, không có muối và không có đồ ăn. Mỗi bữa mọi người chỉ được ăn cháo do bọn lính Para phát cho mà thôi.
Uống vài ngụm cũng chưa đã khát, nên sau đó chúng tôi được các bà ấy rót nước cẩn thận ra ba lon sữa bò và trao cho ba chúng tôi. Hết thẩy mọi người ở đó đều nhìn chúng tôi với sự xót thương, nhưng không ai vội vàng kể cho chúng tôi những chuyện khổ cực trong tù. Có lẽ họ nghĩ rằng chúng tôi vừa mới đến nơi, kể ngay sợ chúng tôi đau khổ sớm.
Trong nhà tù ấy rất dơ dáy, toàn là đất bụi, chiếu thì rách te tua. Người ở trong tù đã quá quen với cảnh dơ bẩn đó, còn chúng tôi thì còn ngại dơ nên đứng lóng ngóng ở đó và không dám ngồi. Mọi người cứ mời chúng tôi ngồi mãi. Cuối cùng chúng tôi đành ngồi nhẹ xuống vì ngồi mạnh lại sợ dơ.
Sau đó chúng tôi mới hỏi thăm tình hình trong nhà tù và được biết rằng căn nhà tù này rất nhỏ, mỗi cạnh độ chừng bốn thước mà được ngăn làm hai: Một bên chứa người Miên hay lính Miên phạm pháp. Một bên chứa người Việt tị nạn. Số người Miên bị giam chiếm hai phần ba, còn số người Việt chiếm một phần ba dân số.
Trước đó, phiá giam người Việt tị nạn có đến bốn mươi hay năm mươi người. Lúc tôi đến thì có khoảng hai mươi hay ba mươi người. Mọi người chen chúc sống trong căn nhà chật hẹp. Khổ một nỗi là ngay trong phòng có một cầu tiêu, chiếm một phần tư diện tích căn phòng. Người ta bài tiết ngay ở đó, mà lại không có nước để dội. Vì thế, mùi hôi thối bay ra nồng nặc, lại thêm ruồi bọ nhiều như ong. Ruồi nhiều đến nỗi chúng bu vô cơm, cá khô và tất cả mọi thứ. Con nít đi tiêu chảy tung tóe đến nỗi phân dính đầy trên chiếu.
Tối đến, chúng tôi cũng vẫn phải ngủ trên chiếc chiếu có dính phân. Phòng vừa chật vừa hôi thối, người ta chen chúc như nêm cối. Lúc đầu, chúng tôi thấy phòng dơ, ruồi nhiều nên không dám ăn cơm nữa vì chưa ăn đã ớn và sợ đến tận cổ rồi. Cơm nước thì do bọn dân tù nấu ở một nhà bếp làm phía ngoài. Mấy ngày đầu chúng tôi mới đến thì bọn Para cho ăn vài bữa cơm. Sau thì toàn cho ăn toàn là cháo trắng và muối hột mà thôi.
Sau đó, bọn Para cho tôi nhập vào đám tù đàn ông để làm công tác nặng như đào giếng, làm đường, cưa cây xẻ gỗ, làm nhà, đào mìn hay gỡ mìn. Còn đàn bà thì làm những việc nhẹ chung quanh trại. Khổ một điều là đàn bà bị hãm hiếp thường xuyên. Ban ngày, bọn Para kéo đàn bà vào ngay văn phòng của chúng để hành lạc tập thể. Ban đêm lại còn kinh khủng hơn vì chúng lôi phụ nữ đi hãm hiếp từng đêm.
Bọn chỉ huy của Para thường mang danh là chống Cộng, là lực lượng giải phóng, nhưng thực chất, chúng chỉ là bọn thảo khấu, ăn cướp và hãm hiếp phụ nữ mà thôi. Chính những tên được gọi là ”Ông lớn”, hay ”Lục thum” là những tên tai quái nhất.
Ban đêm chúng cho người đem một mảnh giấy gọi hết cô này đến cô kia lên văn phòng cho ”Ông lớn điều tra”. Như vậy ai cũng hiểu là chuyện gì sẽ xảy ra cho những cô gái ấy rồi. Ở văn phòng các ”ông lớn” thường có sẵn bốn, năm tên lính Para ngồi chờ. Khi các cô trở về thường là đi hết nổi, có cô bại liệt hẳn và phải có người dắt nách hai bên.
Còn những tên lính ”tép riu” Para thì hay làm càn. Chúng kéo các cô vào cầu tiêu ngay trong phòng. Có khi chúng hãm hiếp các cô gái ngay trước mặt bọn tù tị nạn người Việt. Cả con nít cũng phải chứng kiến cảnh đốn mạt ấy. Hội Hồng Thập Tự Quốc tế (HTTQT)có can thiệp xin lãnh mọi người tị nạn, đặc biệt là xin cho các cô gái được dời đi đến các trại khác, nhưng lính Para cũng không tha cho họ ra đi.
Thường thường thì các cô gái đẹp mà không có chồng hay không có gia đình đi chung thì bị chúng giữ lại rất lâu để hành lạc. Tôi có quen hai cô gái tị nạn. Sau này một cô được chấp nhận cho tới Mỹ, còn một cô được đi Canada. Hai cô này bị hãm hiếp hàng đêm đến nỗi trở thành ngơ ngẩn nhưng may mà chưa điên. Đàn ông khỏe mạnh thì bị giữ lại ở trại tù rất lâu để làm lao công. Cơ hội đi thoát cũng rất là khó.
Gia đình tôi kể ra là may mắn nhất. Chúng tôi ở trại tù khoảng một tháng rồi được chuyển qua một khu khác gần nhà thương Non Chan. Tụi Para chơi bùa nhiều nên có đứa ngán, không dám hãm hiếp vợ người vì sợ bùa hành. Do đó những gia đình có vợ và con nhỏ thường dễ được đi nhanh hơn các trường hợp khác. Chúng tôi khai là vợ chồng có con nhỏ nên được hội HTTQT can thiệp mạnh và cho đi sớm.
Mỗi tuần, vào sáng thứ tư là ngày hội Hồng thập Tự Quốc tế tới. Ở trong tù, ai cũng mong đợi cho mau đến ngày thứ tư. Đến ngày ấy, không ai phải đi làm lao động cả mà chỉ ở nhà nằm chờ cho hội HTTQT đến lấy danh sách tên tuổi của người tị nạn. Lấy danh sách là một chuyện còn khi nào bọn Para Miên cho đi thì hội HTTQT mới có thể ”bốc” dân tù tị nạn đi được. Nếu bọn Para không cho dân tị nạn đi thì đành phải chờ cho dù mấy tháng, mấy năm vẫn phải chịu.
Như thế số phận dân tị nạn như cá nằm trong rọ, sống khắc khoải dưới sự đàn áp và cưỡng bức tàn bạo của bọn Para. Có nhiều người đã phải chờ cả hai năm. Có người bị giết chết cách tức tưởi nên chẳng bao giờ còn dịp gặp được hội HTTQT cả.
Những người tị nạn nào đã được gặp hội HTTQT thì vẫn tiếp tục đi làm. Còn những người khác vì lý do nào đó như gái đẹp, trai khỏe mạnh, hay tỏ ý chống cự lại bọn Para thì đến ngày hội HTTQT đến, bọn Para bắt họ đứng riêng, không cho gặp mặt nhân viên của hội.
Cũng có người bị bọn Para nghi là Cộng sản, gián điệp, không thành thật hay còn giấu diếm tiền bạc, vàng nên không được chúng cho gặp nhân viên hội HTTQT. Đã có hai người đến trước chúng tôi khoảng mấy tháng và ở trong trường hợp bị chúng tách riêng không cho gặp nhân viên hội HTTQT. Chúng giữ hai người này cả năm trường. Hai ông này rất sợ hãi vì không biết bị bọn chúng đập đầu giết chết lúc nào.
Một điều lạ là bọn Para Miên ghét Cộng sản Miên đã đành , nhưng chúng cũng rất ghét sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa của chế độ cũ. Các vị cựu sĩ quan như đại tá hay trung tá mà vượt biên đến đó cũng bị bọn chúng chúng hành hạ, đầy ải đến nỗi họ ăn ngủ không yên. Tinh thần họ bị khủng hoảng vô cùng. Vì thế tôi lấy làm thắc mắc, chẳng hiểu lý tưởng của bọn Para như thế nào nữa.
Ở trong tù mà không biết tiếng Miên thì thật là khổ. Như trường hợp của tôi: Hôm đó có một đám lính Para tới phòng tôi và nói một tràng tiếng Miên. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả, may mà có một phụ nữ tị nạn biết tiếng Miên nên dịch ra tiếng Việt cho chúng tôi hiểu. Chúng bảo:
”Ai có gia đình thì ở lại phòng này, còn ai không có gia đình thì qua bên phòng kia ở với tù người Miên.“
Vì thế, chúng tôi yên trí ở lại phòng đó. Tối đến lại có một nhóm Para khác đến cũng nói một tràng tiếng Miên. Tôi cũng không biết chúng nói gì. Thế là một lần nữa, người đi qua, kẻ ở lại, còn chúng tôi ngơ ngác đứng xớ rớ. Liền đó, một thằng Para giận dữ đá ngay vào mặt tôi và nạt lớn. Sau đó, nó còn đá bồi vào ngực vào lưng tôi rồi kéo đầu tôi qua phía phòng bên kia.
Những người ở cùng phòng hoảng hốt hét to:
”Đi ra đi! Đi ra đi!”
Tôi hốt hoảng và chạy ”dọt” ra ngoài. Như vậy là đàn ông dù có gia đình hay không gia đình đều phải qua phòng đó. Thế là chúng muốn tách tất cả đàn ông ra một phòng riêng.
Tôi vội vàng chạy chúi đầu vào phòng của người Miên và không dám ngóc đầu lên nữa. Tối đó, tôi phải nằm trên một chỗ đất lồi lõm, không bằng phẳng mà ngủ. Vì vào phòng sau cùng, nên ai cũng dành chỗ tốt hơn, còn tôi chỉ có chỗ nằm tệ nhất thôi.
Đêm hôm đó, tôi đau lưng cả đêm, lại thêm bị tức ngực và đau mặt ê ẩm vì những cái đá của thằng lính Para độc ác. Dù đau và nằm không thoải mái, tôi cũng chịu trận vì hễ trở mình, lỡ đụng bọn tù Miên bên cạnh là chúng đạp lại và đánh tôi ngay. Thật là khổ ải, hết bị bọn này hành hạ lại đến bọn khác đánh đập. Ngay cả đến chút nước uống của mình, bọn tù Miên cũng cướp lấy, không cho chúng tôi uống.
Ban ngày, đàn ông tù tị nạn đi làm, được nấu cơm ăn bên ngoài. Ăn xong, bọn họ gói cơm và để dành nước đem về cho tù đàn bà và con nít ở nhà. Cứ chiều đến, những người tù ở nhà đứng bu bên cạnh hàng rào kẽm gai, ngóng mắt chờ mong những người tù nam về để xin cơm và nước mà sống qua ngày.
Vì sống trong cảnh khổ đau cùng cực nên chúng tôi thương yêu nhau như trong tình gia đình: chia cho nhau từng chén cơm và ngụm nước. Lúc ấy mới thấy thấm thía câu ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.”
Khi đám tù đàn ông chúng tôi đi ra ngoài làm lao động, chúng tôi vẫn tiếp xúc với dân chúng Miên. Họ có vẻ thông cảm và thương hại chúng tôi. Hình như họ cũng bị ép buộc ở vùng đó. Họ cũng buôn bán cò con, lẻ tẻ như dân nghèo Việt nam. Họ bán ổi, xoài, kẹo và bánh. Đôi khi vì thấy chúng tôi quá cực khổ nên họ lén cho chúng tôi một trái xoài hay một cây kẹo.
Nhiều người Miên ở đấy biết tiếng Việt nhưng không dám nói tiếng Việt với chúng tôi vì họ sợ bọn Para ghét. Cho đến nay tôi vẫn còn thương một người lính Miên tên là Khíp. Mẹ anh ta là người Việt. Có lẽ vì thế mà anh thương bọn tù chúng tôi. Đôi lúc, anh ta cho chúng tôi ít nước uống hay dấm dúi cho con nít vài cái kẹo. Khíp không hề đánh dân tị nạn Việt mà còn giúp chúng tôi những thứ lặt vặt trong khả năng của anh ta nữa.
Có lần vì thấy bọn tù chúng tôi ở dơ, không có nước tắm nên anh Khíp xin cấp trên cho anh dẫn từng năm người đi tắm. Không hiểu anh này có biết tiếng Việt hay không, có thể anh ta biết nhưng vì sợ bị bọn Para kia kiếm chuyện nên không dám nói tiếng Việt với chúng tôi.
Các câu chuyện về lao động khổ sai:
Có nhiều trường hợp mà dân tị nạn phải đi gỡ mìn và chết oan vì mìn nổ. Một người bạn của tôi tên là Dũng. Dũng và người anh trai cùng đi vượt biên đường bộ và cùng bị tù ở Non Chan. Tại đây, có một phái đoàn Phục quốc người Việt đến chiêu mộ binh sĩ. Người anh của Dũng đã tình nguyện gia nhập đoàn quân phục quốc, còn Dũng thì ở lại, chịu cảnh làm lao động khổ sai.
Dũng còn trẻ là học sinh, cả đời không biết gì về súng đạn hay bom mìn gì cả. Một hôm Dũng đang làm lao động thì bọn Para kêu anh ta ngồi riêng ra một chỗ. Rồi bọn chúng cho Dũng ăn một nồi cơm nguội và cá khô. Điều này rất hiếm vì ở trong tù chỉ được ăn cháo trắng, đôi khi còn không có muối mà ăn chứ đừng nói đến chuyện ăn cá khô.
Khi Dũng ăn no nê xong, chúng còn cho Dũng ngồi nghỉ thật lâu và còn cho hút thuốc lá nữa. Dũng rất ngạc nhiên nên cứ thắc mắc mãi. Chừng một lát sau, mười tên lính Para Miên đội mười quả mìn từ đâu đến để trước mặt Dũng. Rồi thằng chỉ huy Para vừa nói vừa ra dấu cho Dũng cách thức tháo ngòi nổ. Hắn nói bằng tiếng Miên nên Dũng không hiểu mà chỉ biết nhìn theo cách hắn dạy để làm thôi.
Tên Para lấy một cái búa và một cái đục để ra dấu chỉ cho Dũng đục qủa mìn theo hình chữ thập. Phải đục thật cẩn thận và khéo léo. Đục xong thì cậy lên để tháo ngòi nổ. Sau đó rút chốt quả lựu đạn rồi nhét và qủa mìn. Cần nhất là làm nhẹ nhàng kẻo mìn nổ.
Sau khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bọn lính Para chạy dạt ra xa hết vì sợ nổ. Thế là còn lại chỉ có Dũng với mười trái mìn. Nhát búa đầu tiên mà Dũng đóng vào quả mìn làm tim anh nhói lên vì sợ hãi. Anh sợ vì lỡ nó nổ thì anh ta chết tan xác ngay. Anh ta cố gắng đến tột độ nên làm xong quả mìn đầu tiên thì người Dũng ướt đẫm hết vì mồ hôi toát ra như tắm.
Hồi Ký Của Ông Lê Bá B - Phần 2
Phần 2
Khuya hôm ấy, tôi được dẫn vào một làng của người Khmer Đỏ. Trong làng tối đen như mực. Người ta di chuyển trong làng đều phải dùng đèn pin. Mỗi khi có ánh đèn pin lóe lên là tôi sợ điếng hồn vì ngỡ rằng công an hay bộ đội Miên bắt mình.
Cũng tại làng ấy, tôi gặp được chiếc xe bò đã chở gia đình tôi. Lòng mừng thầm vì tôi nghĩ rằng mình sẽ được leo lên xe bò đi tiếp thay vì phải đi bộ. Ai ngờ xe bò lại đi tiếp về phía trước, còn tôi phải lẽo đẽo theo sau và giữ khoảng cách độ mười thước.
Tới một trạm gác, có một tên lính Miên chận xe bò lại và nói một tràng tiếng Miên. Lập tức, chiếc xe bò phải ngừng lại. Nhanh như cắt, tên dẫn đường kéo tôi đi tách ngay qua đường khác liền. Tôi sợ run lên vì nghĩ rằng chị và cháu tôi có thể bị phát hiện và bị giam giữ tại đó rồi. Trời thương nên tôi không ngồi trên xe bò ấy.
Dù đi lối khác để tránh sự dòm ngó, nhưng tôi luôn phải chạy theo người dẫn đường. Chúng tôi đi lạc vào một bãi gò mồ ma. Nơi này có đầy phân và nước tiểu. Mỗi bước đi là đạp lên phân. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc làm tôi muốn ói. Tuy vậy chúng tôi không còn cách chọn lựa nào khác an toàn và tốt hơn cả.
Chúng tôi cứ lần mò mãi trong đêm đen như những người mù. Cuối cùng, tôi được dắt vào một nhà sàn có lầu cao. Hình như đó là nhà của một nhân viên cao cấp Khmer Đỏ, có liên hệ bà con với bọn dẫn đường. Sau đó, họ lấy mì sợi cho tôi ăn để lấy lại sức. Nhưng tôi vì mỏi mệt quá lại căng thẳng đầu óc nên ăn không nổi, mà chỉ xin uống thuốc thôi.
Cũng tại ngôi nhà này, tôi gặp lại chị và cháu tôi. Cả hai người đang nằm sẵn từ hồi nào rồi. Thì ra lúc xe bò chận lại thì bọn lính chỉ hỏi han qua loa rồi cho đi qua chứ không bắt lại. Cả ba chúng tôi mừng rỡ vì được đoàn tụ, còn sống sót mà nhìn thấy nhau là vui rồi.
Thế rồi, chị em tôi bảo nhau đi ngủ cho đủ sức mà đi tiếp nữa. Còn bọn người Miên trong nhà thì nói chuyện nho nhỏ vì nơi này nguy hiểm, đó thuộc vùng kiểm soát của Khmer Đỏ. Nếu bị lộ thì mất đầu như chơi.
Nơi đây, chúng tôi cũng gặp lại người đẫn đường đã đưa chúng tôi từ Sàigòn đến Nam Vang và Battambang. Anh ta nói tiếng Việt với chúng tôi rằng:
-Bây giờ đã đến nơi an toàn rồi. Coi như anh chị đã thành công rồi. Vậy xin anh chị hãy viết mật mã cho tôi về Sàigòn lãnh số vàng còn lại. Vì khi ở trại tị nạn, chúng tôi không dám đến đó để lãnh tiền. Ở đó có Hội Thiện Quốc Tế, ai mà dám đòi tiền nong và mật mã?
Chị em tôi bàn tính thiệt hơn. Đây đâu đã phải là trại tị nạn mà chỉ mới là vùng của Khmer Đỏ kiểm soát. Mình sống chết chưa biết lúc nào, làm sao mà dám viết thư về nhà để giao tiền hết cho họ?
Tuy nhiên, sau khi thảo luận, chị em tôi đều đồng ý viết đúng nội dung mật hiệu mà chúng tôi đã thỏa thuận với người nhà ở Việt nam để họ có thể về lấy tiền. Chúng tôi nghĩ:
”Mình cứ lấy lòng ngay thẳng mà đối với họ rồi Ơn Trên sẽ giúp đỡ và che chở cho mình.”
Vì thế, tôi liền viết mật hiệu vào tờ giấy như sau:
”Anh, B., Sơn đã khỏi bịnh.”
Anh là tên của chị tôi, B. là tên của tôi, còn Sơn là tên của cháu tôi. Nếu tôi viết mật hiệu có nội dung khác như:
”Ba chị em tôi đã đến Mỹ,”
Thì làm sao hắn biết được? Mà về đến Việt Nam thì người nhà tôi dứt khoát không bao giờ giao tiền cả vì hai mật hiệu hoàn toàn khác biệt.
Sau khi giao mật hiệu cho anh ta, gia đình tôi ngủ đỡ độ chừng một, hai tiếng đồng hồ cho đỡ mệt. Đến lờ mờ sáng thì bọn họ đánh thức chúng tôi dậy đi tiếp. Anh dẫn đường kia đã đi về hướng Việt Nam để lãnh tiền. Từ đó trở đi, chúng tôi chỉ đi với bọn dẫn đường khác mà thôi.
Lần này cả ba chúng tôi phải đi bộ băng qua các khu gò mồ mả. Đi một lúc lâu, cháu nhỏ của tôi mệt quá nên đi không nổi nữa. Người dẫn đuờng phải cõng nó mà đi tiếp. Chúng tôi băng đồi mà đi mãi. Khi đến một khu rừng âm u vắng vẻ, chúng tôi cùng người dẫn đuờng đứng tại đó để chờ xe bò.
Chờ thật lâu mà xe bò không thấy tới, chúng tôi bồn chồn nóng ruột vô cùng. Người dẫn đường cũng lo âu không kém. Hắn nhìn tới nhìn lui, chép miệng và nói một tràng tiếng Miên. Tôi đoán rằng anh ta bực mình nên phàn nàn về việc chiếc xe bò đã đi lạc hướng rồi. Những phút chờ đợi dài lê thê. Rốt cục, chúng tôi nghe tiếng xe bò lọc cọc đi tới.
Khi xe bò đến nơi, người đánh xe bò vẫn là người cũ, nhưng người ngồi trên xe bò phiá sau lại là người lạ. Người đánh xe bò dừng xe lại rồi trả tiền cho người lạ kia. Chúng tôi đoán chừng anh ta dẫn dường cho anh chủ xe bò đi lọt qua các trạm gác. Anh nọ nhận tiền là đi ngay, bóng anh mất hút về phía đường khác.
Đến bấy giờ, ba chúng tôi lại được ngồi trên xe bò cùng với chủ xe và anh dẫn đường để đi tiếp. Lần này xe bò đi vào rừng chứ không còn cảnh đồi hay ruộng nữa. Xe đi băng rừng mãi cho đến khoảng 9:00 giờ sáng. Tiếng chim hót thật hay lạ lùng và làm vui tai người nghe. Rừng thật yên tĩnh hoang vu, không một bóng người, không có cả tiếng động, ngoài tiếng xe bò đi lọc cọc và tiếng chim ríu rít hót líu lo.
Cảnh rừng thật đẹp và hùng vĩ nhưng tôi chẳng còn lòng dạ đâu mà thưởng thức cảnh đẹp nữa, chỉ toàn thấy hồi hộp và lo âu. Đi thật lâu trong khu rừng vắng mà không thấy động tĩnh gì, nên chúng tôi tạm yên tâm.Trong khi đó, anh dẫn đường chỉ tay về phía trước và nói:
”Thái Lan, Thái Lan!”
Chúng tôi mừng vì nghĩ là chắc sắp tới nơi an toàn rồi, có lẽ trại tị nạn chỉ còn vài bước nữa thôi. Thình lình, từ trong đám bụi cây, có ba người lính bộ đội Việt Nam, đầu đội ba chiếc nón cối nhảy xổ ra đột ngột làm cho chúng tôi giật nẩy mình.
“Ôi thôi, bộ đội Việt Nam rồi!”
Chúng tôi rụng rời tay chân, lòng thầm nghĩ:
”Thế là hết, đã đến nơi mà gặp bộ đội thì đời tàn rồi. Tiền đã hết, làm gì có mà hối lộ cho họ nữa chứ? Họ lại bắt mình về Việt Nam rồi. Ôi! Uổng cho công sức, uổng cho tiền bạc đã mất đi. Thế là mất tất cả rồi! Không còn gì nữa hết rồi!”
Chúng tôi tuyệt vọng và sợ hãi đến tột độ. Ba người bộ đội hỏi chúng tôi bằng giọng Bắc nặng và quê của những người Bắc vào miền Nam sau năm 1975, chứ không phải những giọng Bắc của những người Bắc di cư năm 1954:
-Mấy người đi đâu?
Bọn người Miên đứng im lặng không trả lời đã đành, còn chúng tôi cũng im lặng luôn, giả bộ là người Miên, không hiểu tiếng Việt. Lính bộ đội hỏi tiếp:
-Rõ ràng mấy người vượt biên mà. Người Việt Nam sao không trả lời?
Thôi, lộ tẩy rồi! còn gì nữa mà giả bộ không hiểu. Chúng tôi bắt buộc phải trả lời:
-Bọn tôi là người Việt Nam.
Họ hỏi tiếp:
- Mấy người đi đâu thế?
-Bọn tôi định đi Thái Lan thăm người bà con.
-Vượt biên chứ Thái Lan, Thái liếc gì! Xuống! Xuống xe hết!
Chúng tôi ngán ngẩm, vội bước xuống xe hết. Họ lại hỏi:
-Tại sao đi vượt biên?
Chị tôi khóc lóc thảm thiết và trả lời:
-Dạ tại khổ quá nên chúng tôi phải đi.
-Biết khổ sao còn đi? Bây giờ có tiền không? Không tiền là không đi đâu hết!
Thế là bọn họ tách chúng tôi ra hai nhóm để lục xét. Họ bắt chúng tôi cởi quần áo ra để họ lục soát kỹ xem có vàng bạc hay tiền nong gì không. Sau đó họ định hãm hiếp chị tôi ngay tại đó. Chị tôi sợ run rồi khóc nức nở. Vừa khóc, chị vừa năn nỉ và van xin thật lâu:
-Các anh cũng đáng tuổi em của tui, xin làm ơn tha cho tui đi.
Cuối cùng, họ tha cho chị. Họ xét rất kỹ mà chẳng kiếm được cái gì, vì còn gì nữa đâu mà họ lấy? Rốt cuộc, họ giật hai mẩu bánh mì trên tay cháu tôi. Hai mẩu bánh mì này là do quà của anh dẫn đường cho cháu tôi. Bọn họ bảo:
-Chắc là có dấu đồ trong bánh mì rồi. Có phải dấu đồ trong bánh mì không?
Tôi nghĩ chắc họ ở đây cũng thèm bánh mì nên mới lấy bánh mì của cháu tôi để mà ăn. Thế rồi họ cứ kéo dài việc lục soát. Chúng tôi sợ càng kéo dài càng nguy hiểm vì lỡ đồng bọn họ kéo tới thêm nữa thì còn khó mà thoát hơn. Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra là trong cổ tôi còn có một tượng Phật bằng ngà bọc vàng tây. Tôi đeo tượng Phật để mong được Phật độ trì và che chở. Tôi dùng sợi dây tròn trắng mà binh lính thường đeo thẻ số quân để đeo tượng vào cổ. Cũng may là bọn Miên cướp đường lúc trước đã xét lục mà chưa tìm ra. Tượng đeo trên cổ, lẫn vào cổ áo mà chúng đã không thấy, kể cũng là lạ thật! Bọn lính cố dùng dằng tìm kiếm đồ quý hay tiền vàng trong quần áo chúng tôi hoặc để cho chúng tôi sợ hãi và sốt ruột mà thòi đồ quý ra cho họ.
Tôi bèn năn nỉ:
-Xin các anh cho chúng tôi đi, bao nhiêu vàng tôi đã giao cho bọn dẫn đường. Còn tiền bạc và đồ qúy giá thì bọn Miên cướp đường lần trước đã lấy hết. Không tin mấy anh hỏi bọn dẫn đường này mà xem.
Nhóm bộ đội nạt lớn:
-Mấy thằng Mán rừng đó làm sao mà hỏi nó được? Nó có biết tiếng Việt gì đâu mà hỏi?
Tuy nói thế nhưng bọn họ cũng tới nạt hỏi bọn người Miên dẫn đường. Họ chỉ lắc đầu quầy quậy chứ chẳng chịu hối lộ tiền cho nhóm bộ đội Việt Nam kia. Tôi thầm nghĩ:
“Mình phải tìm cách đi chứ kéo dài mãi thì chết.”
Thế là tôi nói:
-Tôi còn tượng Phật này, các anh lấy đỡ rồi cho tôi đi!
Vừa nói, tôi vừa tháo gỡ tượng Phật giao cho mấy anh bộ đội để họ cho đi. Cầm tượng Phật xong, họ liền hất hàm ra lệnh:
-Thôi đi đi! Mấy người sao mà gan vậy? Đường này toàn gài mìn hết cả rồi! Bây giờ anh chỉ bọn Miên đi đường bên trái kia kìa. Nếu đi đường bên phải là tiêu luôn đó nghe!
Tôi trả lời:
-Mấy anh làm ơn nói hộ với nhóm người Miên cho họ hiểu, chứ tôi đâu có biết tiếng Miên mà nói với họ?
Bọn họ liền nói một tràng tiếng Miên với những người dẫn đường và chỉ trỏ các lối đi an toàn cho chúng tôi đi. Khi đó, chúng tôi mừng quá vì đã thoát nạn nên vội leo lên xe bò ngay. Xe vừa chuyển bánh thì ba người bộ đội dặn vói:
-Đằng trước còn nhiều trạm bộ đội Việt Nam nữa. Nếu họ có chận hỏi thì làm bộ giả người Miên, nhớ đừng trả lời. Hễ trả lời là chết đó! Thôi đi lẹ lên!
Tôi thầm nghĩ:
”Làm sao mà giả người Miên được? Họ nhìn là biết ngay mình là người Việt. Dấu làm sao được? Từ khuôn mặt đến dáng điệu, nhìn là biết liền.”
Chúng tôi cám ơn họ rối rít rồi đi tiếp. Xe băng rừng và đi độ thêm một hai tiếng đồng hồ gì đó thì chúng tôi gặp một đám lính mặc đồ rằn ri, có mang súng ống đầy đủ. Chúng tôi thoạt đầu mừng quá vì nghĩ rằng chắc đây là:
”Quân ta đây rồi! Đồ quân phục của lính Dù, lính Biệt Động Quân đây mà! Ôi, màu áo quen thuộc, thân thương của quân ta đây!”
Nhưng lúc đến gần, chúng tôi mới biết là lính dù Người Miên. Chúng có cái tên quen thuộc là Para. Chúng là lính của quân đội giải phóng Miên. Bọn chúng xúm lại, kéo chúng tôi khỏi xe bò để dắt vào lùm cây mà xét và cướp của lần nữa. Mặt mũi của bọn Para ra này thật dữ dằn và hung tợn. Thằng nào cũng xâm hình tượng Phật nhỏ đầy mặt, đầy cổ và đầy người. Chúng còn đeo tượng Phật và bùa đỏ đầy trên cổ.
Bọn Para trao đổi lời lẽ với những người đi xe bò dẫn đường và muốn đuổi họ đi. Nhưng bọn họ không đi mà cứ đứng nấn ná đợi chúng tôi. Bọn Para thì cứ xua tay đuổi bọn kia đi để chúng dễ bề xét người và cướp của trên người của chúng tôi.
Chúng chia nhỏ toán quân và dò xét quanh vùng. Một vài tên lính Para biết tiếng Việt lõm bõm, chúng bèn hỏi chúng tôi với giọng lơ lớ và sai văn phạm, nghe thấy thật buồn cười:
-Có gặp bộ đội Việt Nam không? Bộ đội Việt Nam đông không? Họ có những súng gì?
Rồi chúng lại tiếp tục xét người chúng tôi. Chúng tôi lại phải bị lột quần áo và đứng tơ hơ. Tụi này khám rất kỹ, kể cả hậu môn và chỗ kín chúng cũng không bỏ qua. Lại một thằng Para Miên lấy súng lục kê cạnh tai tôi và hỏi gằn:
-Bộ đội Việt Nam phải không? Bộ đội hay nhân dân Việt nam?
Tôi sợ quá, run cầm cập mà trả lời:
-Tôi là dân Việt Nam đi vượt biên, chứ không phải bộ đội Việt Nam.
Hắn hỏi gằn đi gằn lại:
-Thiệt không? Nói láo bị bắn chết ngay! Khai thiệt đi, nhanh lên!
Cứ thế, nó dọa nạt tôi đủ thứ. Lúc ấy, trong túi quần tôi còn một cái dụng cụ ngoáy tai bằng bạc mà tôi giữ làm kỷ niệm đã lâu. Thằng Para này đòi lấy, tôi cũng đưa luôn. Tiếc gì nữa mà giữ lại? Cháu nhỏ của tôi còn một tượng Phật bằng bạc, chúng nó cũng đoạt lấy luôn.
Tìm tòi mãi mà chẳng có gì đáng giá, chúng bèn ra lệnh cho chúng tôi mặc quần áo lại mà đi tiếp với toán quân của chúng. Đi một chập, chúng tôi gặp lại chiếc xe bò cũ, bọn Para lại trao đổi, mặc cả và trả giá gì đó với bọn đi xe bò. Cuối cùng chúng lại đuổi bọn xe bò đi.
Thế là từ đấy, chúng tôi không còn gặp lại chiếc xe bò đó nữa. Trong lòng lo lắng và sợ hãi, chúng tôi chỉ sợ bọn người rừng rú này làm bậy và hãm hiếp chị tôi. Nhưng Trời thương, chúng không hãm hiếp.
Khi đến một nơi tiền đồn, có giao thông hào và đồn phòng thủ, chúng bèn giao chúng tôi cho một toán quân ở nơi đó và bảo đưa chúng tôi đến Non Chan. Bọn lính sau này gặp một xe bò chở nước, chúng nhảy lên xe bò ngồi và cho phép cháu nhỏ của tôi leo lên xe theo. Tay chúng lăm lăm ghìm súng chỉ vào người chúng tôi như muốn sẵn sàng nả đạn vào gia đình tôi.
Trong lúc đó, chị tôi và tôi phải chạy bộ theo dấu xe bò mà đi. Vừa mệt, vừa sợ lạc mất đứa cháu, vừa khát khô cổ nhưng chúng tôi vẫn phải bương bả chạy theo xe bò mà đi. Cơn nắng lên cao, cơn đói khát, nỗi sợ hãi làm chúng tôi mệt đến có thể ngất xỉu ngay tại đó.
Ôi! đường đến với tự do sao quá khổ sở, đầy gian nan thử thách và đầy nguy hiểm như thế này? Chúng tôi lần mò đi để tìm đến vùng Non Chan. Một bước ngoặt của đoạn đời mới đầy tủi nhục và đau thương bắt đầu từ đây!
Hồi Ký Của Ông Lê Bá B - Phần 1
(Loạt bài này lấy từ sách online "Vượt biên đường bộ tìm tự do" từ website http://memaria.org)
Phần 1:
CUỘC HÀNH TRÌNH VƯỢT BIÊN ĐẦY GIAN KHỔ
Sau rất nhiều lần mưu tính vượt biên bằng đường thủy bị thất bại, chúng tôi đành quyết định đi vượt biên bằng đường bộ để tìm đến Thái lan.
Sau khi tìm được mối xong, chúng tôi thỏa thuận giá cả. Cuối cùng, chúng tôi phải đóng mỗi đầu người hai cây (lượng) vàng cho người dẫn đường. Ba người là sáu cây. Chúng tôi phải trả trước một nửa số vàng là ba cây. Nếu đến trại tị nạn thành công thì chúng tôi sẽ viết mật hiệu về nhà ở Sàigòn thì người nhà của tôi sẽ trả đủ số vàng cho người dẫn đường.
Ngày khởi hành: Ngày 6, tháng 4, năm 1982.
Khởi đầu, chúng tôi từ Sàigòn đến xa cảng miền Tây để đi về Châu Đốc. Từ Châu Đốc, chúng tôi theo người dẫn đường lên tàu gỗ rồi ngược giòng sông Mêkông để đến Nam Vang (Phnom Penh). Có lẽ nhờ sự hoá trang khéo và nhờ ơn trên che chở nên trên đoạn đường từ Châu Đốc đến Nam Vang, chúng tôi không bị trở ngại gì cả, dù có rất nhiều trạm kiểm soát của Cộng sản Việt và Khmer ở dọc giòng sông.
Khi đến Nam Vang, chúng tôi ở lại nhà người dẫn đường trong khoảng một tuần lễ để họ dò đường kỹ rồi mới dẫn chúng tôi đi tiếp. Ngày khởi hành, chị họ tôi và cháu nhỏ thì đi xe đò, còn tôi được người dẫn đường dẫn đi bằng xe lửa lên thành phố Battambang để tránh sự kiểm soát và dòm ngó.
Khi chúng tôi vừa đến ga xe lửa ở Nam Vang thì bị một tên Miên mặc thường phục nhận ra tôi không phải là người Miên nên hắn chận tôi lại để làm khó dễ. Hắn hỏi tôi bằng một tràng tiếng Miên, thế là lộ ngay. ”Thừa nước đục thả câu,” hắn bắt bí tôi rồi vặn hỏi tôi xem ai là người dẫn đường cho tôi đi. Buộc lòng, tôi phải chỉ người dẫn đường ra. Thế là anh chàng dẫn đường plhải dắt hắn qua toa xe lửa gần đó để hối lộ cho hắn. Vì thế hắn làm ngơ cho chúng tôi đi.
Sau đó, hai chúng tôi ngồi ở toa chở hàng sát đầu máy xe lửa. Toa này không có mui và được chất đầy hàng hóa. Trong chuyến đi ấy, tôi thấy rất nhiều bộ đội Việt Nam nên tôi phải trùm khăn để che mặt cho khỏi lộ diện. Nhưng nếu ai chịu khó chú ý kỹ sẽ thấy rõ sự khác biệt giữa người Việt và người Miên từ nét mặt, màu da đến bàn tay và bàn chân.
Ở trên xe lửa, mỗi lần ghé trạm ga dọc đường, tôi đều được người dẫn đường dắt đi ăn uống một cách vội vã. Lần đầu tiên ăn đồ ăn Miên, ngửi mùi đồ ăn tanh quá nên tôi ăn không nổi. Nhưng khi nghĩ ra là mình phải ăn nhiều cho có sức chịu đựng gian khổ nên tôi cố gắng ăn và nuốt trộng cho đầy cái bao tử.
Ăn xong, thấy chậu nước dơ, có mẻ dừa múc nước đã đóng rêu xanh, tôi ngần ngại không dám uống. Nhưng dần dần, thấy mọi người múc nước đó uống lấy uống để, nên tôi cũng uống đại.
Khi ăn xong, chúng tôi lại leo lên xe lửa, quanh tôi có bộ đội Việt Nam rất nhiều. Vừa leo lên toa xe lửa, thì tôi bị một tên người Miên biết tiếng Việt lõm bõm chận lại. Hắn trừng mắt nhìn tôi và hỏi vặn tôi bằng tiếng Việt:
-Việt Nam hả, đi đâu? Đi Thái Lan hả?
Tôi hoảng quá, kiếm cách chống chế:
-Tôi đi với người anh em bạn lên Battambang chơi.
Hắn không tin nên hỏi tiếp:
-Không phải đâu! Đi Thái Lan, đi Mỹ mà!
Thế là cả đám người ngồi trong toa xe nhốn nháo đứng lên rồi dáo dác nhìn tôi. Tôi sợ quá vì một bọn đồng bọn với hắn bu đến. ”Không khá rồi!” Nhanh trí, tên dẫn đường nói ngay một tràng tiếng Miên rồi móc túi, lấy ra một gói thuốc lá hiệu Samit để mời bốn năm người ấy và các người khác trong toa cùng hút.
Thật là lạ, vừa hút xong có hai hơi thuốc, cả bọn tản mạn đi hết. Còn những người khác ngồi trong toa cũng im lặng hẳn đi, chẳng còn đếm xiả gì đến tôi nữa. Sau này, hỏi chuyện kỹ ra, tôi mới biết là tên dẫn đường này đã dùng gói thuốc lá có trộn bùa ngải để sai khiến bọn người kia.
Trông thấy tận mắt, tôi mới thấy bùa ngãi của người Miên linh thật. Trọn một ngày, chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn nắng. Mãi đến 4:00 giờ chiều thì tới trạm ga Pursat, một tỉnh lớn nằm giữa đoạn đường từ Nam Vang đi Battambang.
Khi đến Pursat, người dẫn đường vội vàng dắt tôi vào một nhà người Miên ở gần ga xe lửa để dấu tôi nằm ở đấy. Trên đường đi từ ga đến chỗ tạm trú, tôi thấy rất nhiều người Việt vượt biên bị bộ đội Việt Cộng bắt. Họ đứng quây quần thành một đám đông. Theo sự quan sát và kinh nghiệm của người tị nạn thì có thể nói đến tám mươi phần trăm (80%) người Việt đi vượt biên bị bắt giữ tại ga Pursat này.
Nói chung, có rất nhiều người vì bị người dẫn đường bỏ rơi tại đây nên họ đứng xớ rớ, không biết phải làm sao, “Tiến thoái lưỡng nan.” Thế là sớm hay muộn, họ cũng bị bộ đội Việt cộng bắt được để giải về lại Việt nam rồi vào tù. Thấy họ khóc lóc và sầu khổ bi thương, tôi không ngăn được giòng lệ rơi. Thương cho họ mà sợ cho mình nên tôi phải vội vã quày qủa đi như chạy để khỏi bị phát hiện và để dấu những giọt nước mắt của mình.
Đến nhà người Miên chủ nhà trọ của tôi thì tôi càng sợ đến rụng rời tay chân vì ông này kể rằng vừa mới rồi, có ba người Việt vì bị bỏ rơi nên họ bơ vơ không biết đi về đâu, cuối cùng họ bị bắt. Tin ấy làm cho tim tôi đập loạn cả lên, còn tay chân thì run lẩy bẩy, mặt thì tái xanh lại. Thế là sau khi ăn qua loa bữa cơm chiều, tôi dấu mình trong xó kẹt nhà trọ để mong được yên thân.
Sáng hôm sau, khoảng 7:00 giờ sáng, khi xe lửa chuẩn bị khởi hành thì có một lực lượng công an Miên Việt hỗn hợp túa ra đi lên các toa xe lửa xét lục kỹ lưỡng. Rối họ bao vây quanh chiếc xe lửa. Thế là lại có một số người Việt tị nạn bị bắt giữ nữa.
Vì đã có kinh nghiệm, nên người dẫn đường ra dấu bảo tôi núp mình trong khu nhà dân cư để chờ bọn chúng xét xong xuôi. Đến khi tàu lửa vừa chạy là chúng tôi phóng lên toa xe thật mau. Tôi vốn có tật ở chân nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi chạy lẹ đến thế.
Trên xe lửa, tôi cố gắng giả đò ngủ hay ngó đi hướng khác để tránh sự tiếp xúc hay phải trò chuyện với đám hành khách người Miên. Cơn nắng thiêu đốt, cơn khát bỏng cổ. Cơn sợ hãi đầy tràn. Đến khoảng trưa thì xe lửa đến Battambang. Người dẫn đường và tôi là hai hành khách nhảy xuống đất đầu tiên ở ga đó. Tôi phải thu hết can đảm để đưa trình vé cho người soát vé. Nếu chậm trễ thì sẽ bị công an hay bộ đội Miên Việt bắt giữ.
Sau đó, anh Miên dẫn đường đưa tôi đi bộ thẳng về nhà anh ta. Anh dặn dò tôi ở lại Battambang để anh về lại Nam Vang đón chị và cháu tôi lên Battambang luôn. Chỉ ngày hôm sau thì mọi người đã tề tựu ở nhà anh ta tại Battambang. Gia đình tôi gặp lại nhau tại đó, kể cả mẹ và em gái người dẫn đường cũng đến từ Nam Vang.
Lúc ấy là 12 tháng 4, năm 1982, đúng và dịp tết của người Miên. Vì thế, gia đình người dẫn đường tổ chức ăn uống và đánh bạc tưng bừng, đến nỗi họ chẳng còn đả động đến chuyện đưa gia đình tôi đi tiếp để đến biên giới Thái.
Chúng tôi lo sợ vô cùng vì đã giao hết vàng cho họ rồi. Chúng tôi cứ nhấp nhỏm như ngồi trên đống lửa, bụng bảo dạ chắc là họ không muốn giúp mình đi tiếp nữa. Nhắc nhở vặn vẹo hoài thì sợ họ giận mà im thì lòng bồn chồn và lo lắng.
Cuối cùng, tôi hỏi lại lần nữa thì bọn họ giải thích rằng bây giờ là tết Miên, ai cũng nghỉ ở nhà để ăn tết nên không ai đi buôn bán ở biên giới. Nếu mình mà đi là lộ ngay vì bọn lính kiểm soát rất kỹ trong mấy ngày tết. Bởi vậy chúng tôi ngậm cay nuốt đắng để nằm chờ tại Battambang.
Qua ngày tết Miên thì người dẫn đường bắt đầu đi dò đường để kiếm xe đi tiếp. Tôi có dặn anh từ trước rằng tôi bị tật ở chân nên không thể đi bộ lâu được. Đến mấy ngày sau, anh ta trở về và nói là thuê xe không được vì họ đòi giá quá cao. Thế là, chị em tôi nghi là hắn kiếm chuyện để đòi thêm tiền. Chị tôi bèn rút hết số vàng đem theo là một chỉ rưỡi để đưa luôn cho hắn.
Nhờ vậy hôm sau nữa, hắn mới thuê được xe. Gia đình tôi ba người và gia đình anh dẫn đường đều chất lên một chiếc xe của bộ đội Miên. Bọn bộ đội này dùng công xa để mánh mung chở hàng hoá và đồ ăn như rau, cá, gạo... cho thường dân Miên rồi lấy tiền chia chác bỏ vào túi riêng. Vì là xe của bộ đội, nên qua bao nhiêu trạm là bọn lính gác ở các trạm đều mở cổng cho xe đi, nên chúng tôi đỡ phải lo nạn bị bắt. Còn bọn dẫn đường vì đã quen cái trò đưa người đi nên họ giả đò dẫn gia đình riêng của họ gồm mẹ, em gái và các cháu nhỏ để đánh lạc sự nghi ngờ của mọi người.
Tất cả các phụ nữ và con nít thì ngồi trong xe, còn tôi, người dẫn đường và các đàn ông Miên thì phải ngồi trên nóc mui xe. Đoạn đường đi từ Battambang đến Sway (Soai) đầy ổ gà nên xe dằn quá sức, chịu không nổi. Riêng tôi, tôi mệt đến độ có thể chết ngay tại đó. Nắng, khát, bụi đất, đường ổ gà dằn làm tôi mệt lả người.
Lúc ấy, tôi chẳng còn tha thiết điều gì nữa. Chân tôi tê cứng lại nên tôi đành phải tháo đôi dép cao su cho đỡ đau. Hễ mỗi lần tôi tháo dép ra là người dẫn đường lại vội vàng lượm dép mang vô lại trong chân tôi. Vì tôi mang giày nhiều nên chân rất trắng, nay nếu bỏ dép ra thì lòi đôi chân trắng, khác biệt ngay với những người Miên ngồi chung xe. Vì thế, tôi đành mang dép để che đôi chân trắng của mình.
Khi tới Sway, chúng tôi đều mệt nhừ tử. Ở đó, người dẫn đường bắt liên lạc được với một người quen của anh, hình như anh ta cũng đến từ Battambang.
Trong khi người dẫn đường đi thuê xe bò thì tôi được giao cho một xe đạp cũ để cùng người dẫn đường thứ hai, mà tôi sẽ gọi là Su, đạp xe tới lui trong vùng đó cho khỏi ai nghi ngờ.
Chúng tôi tạm chia ra hai cánh: gia đình tôi và gia đình người dẫn đường đi bộ tới một góc đường đứng chờ. Tôi và Su thì đi xe đạp. Còn người đưa đường kia thì đi cùng với bọn người lái xe bò lượn tới lượn lui. Chờ đến thời điểm thích hợp, chiếc xe bò đang từ đường nhựa, quẹo gấp lại vào con đường đất đỏ. Thế là gia đình tôi từ hai cánh được ngồi lên cùng một xe bò.
Tới đây, gia đình người dẫn đường từ giã ra về. Họ nói là nhiệm vụ của họ đã hết, còn những người đi trên các xe bò là những người chuyên môn đi qua biên giới nên họ sẽ đưa chúng tôi đi tới Thái. Lúc ấy, chúng tôi hoang mang và hồi hộp vô cùng.
Hành trang của gia đình chỉ gồm có hai giỏ chứa đủ thứ thuốc men và quần áo. Thế mà lúc ấy, chúng tôi chỉ còn có một giỏ thôi vì giỏ thứ hai thì bị bọn người dẫn đường giữ giùm và lấy luôn.
Anh dẫn đường đạp xe đạp đi đường khác và hẹn sẽ gặp lại gia đình tôi sau. Khi ấy chỉ còn một người đánh xe bò, vợ anh đang bồng con nhỏ của chị. Gia đình tôi thì lớ ngớ, lòng muốn hỏi thăm tình hình đường xá ra sao nhưng không biết tiếng bản xứ để hỏi, mà họ thì không biết tiếng Việt. Đành chịu chết!
Lúc đó trời đã xế chiều, trên xe bò chỉ gồm có một chiếc chiếu rách còn thì trống trơn. Xe bò vừa đi được khoảng nửa cây số thì đến một trạm gác của du kích Miên. Xui quá, xe vừa vượt qua khỏi cổng thì bọn lính Miên kêu giật lại. Chúng nói một tràng tiếng Miên với người đánh xe bò. Anh chàng này lắc đầu, ý như anh không biết gì cả còn bọn chúng muốn làm gì thì làm.
Thế là bọn du kích Miên kêu nạt lớn chúng tôi một câu:
-Xuống xe!
Chúng tôi y lệnh theo chúng vào nhà. Chúng ra lệnh cho chúng tôi cởi hết đồ để lục xét, xong rồi chúng lấy hết tất cả đồ đạc trong giỏ của chúng tôi gồm thuốc men, khăn rằn, quần áo, đến cả cây viết ”Bic” nữa. Từ đấy, chúng tôi chẳng còn gì ngoài một bộ đồ cũ ở trên người. Chị tôi vừa lo sợ vừa đau khổ nên khóc tức tưởi. Đứa cháu nhỏ của tôi cũng khóc nức nở. Còn tôi, cơn đau làm tôi uất ức, kêu trời không thấu. Tôi nghĩ thôi thế là hết.
Màn đêm đã bao trùm khắp nơi, nếu ở đây là còn sợ chúng hãm hiếp chị tôi nữa. Bọn chúng lôi súng ống và dao búa ra dọa nạt chúng tôi và đòi phải lột vàng ra để giao hết cho chúng thì mới được đi tiếp. Chúng còn ra lệnh cho anh đánh xe bò đánh xe đi. Chúng tôi tuyệt vọng đến tột độ rồi. Chắc đời tàn tại đây thôi. Thật kêu trời cũng không thấu nữa.
May thay có một người Miên đi bộ theo xe bò đem một nắm tiền Miên tới giao cho bọn chúng và ra dấu chỉ còn chừng đó thôi. Tôi nghĩ có lẽ đây là tay chân của người dẫn đường kia. Bọn lính Miên làm bộ khó dễ một hồi, rồi hất tay la lên:
”Đi!”
Chúng tôi mừng rỡ, lật đật bước đi. Tôi bèn đưa tay lấy lại chiếc khăn quàng của tôi thì bị chúng giật khăn lại. Nhưng chúng cho lại chị tôi một chiếc khăn quàng cũ rách để chị đội trên đầu.
Trời lại đổ mưa tầm tã. Cháu tôi chỉ còn một chiếc áo mỏng trên người. Chúng tôi đi lần tìm về phía xe bò ở xa xa. Lòng buồn não nuột lại hoang mang vô vàn, phần khác lại lo sợ cho đứa cháu có thể mắc bịnh vì trúng mưa. Sau này, tôi được biết trạm này rất nguy hiểm vì đã có rất nhiều người Việt bị chận bắt tại đây. May cho chúng tôi là không có bộ đội Việt nam ở trạm kia trong giây phút ấy. Mọi ngày vẫn có quân đội Việt nam ở đó. Họ không ăn hối lộ ít như lính Miên mà ăn rất nhiều. Nếu không có tiền thì tiêu đời.
Trở lại chuyện gia đình tôi lúc ấy, chị tôi vẫn khóc rưng rức trong cơn mưa triền miên. Chúng tôi ngồi chịu trận dưới cơn mưa đêm. Ai cũng run cầm cập. Lại muốn hỏi nhưng đành chịu vì ngôn ngữ bất đồng. Anh đánh xe bò cũng muốn nói với tôi điều gì đó nhưng rồi anh cũng im lặng luôn.
Cứ thế, chúng tôi vừa lạnh run, vừa lo âu. Chúng tôi ngồi trên xe bò đi suốt đêm. Tiếng xe bò lạch cạch vang lên trong đêm vắng cộng với tiếng khóc thổn thức của chị tôi, càng làm cho lòng tôi lo sợ và bâng khuâng:
”Mình sẽ đi về đâu? Tới bến bờ tự do hay bị bỏ rơi giữa đường?”
Xe bò băng qua một cánh đồng để đến một cái vườn hoang có trồng dừa và nhiều loại cây cối. Tự nhiên, chiếc xe bò đứng dừng lại như để chờ đợi một điều gì. Xa xa có tiếng súng nổ dòn, có ánh lửa sáng rực, có làng mạc nhà cửa, và có các luỹ tre rậm rạp...
Trong lúc đó, chúng tôi thắc mắc vô cùng nhưng không thể hiểu được. Khi ấy, người đánh xe bò ra hiệu cho chúng tôi xuống xe đi tiểu. Còn anh thì chạy vào bụi rậm, lấy mấy đống rơm cho trâu bò ăn. Số rơm còn lại thì anh ta bỏ lên xe bò để lót cho chúng tôi ngồi. Hình như anh ta đã quá quen với lộ trình đi, với nơi dấu rơm và cách dấu rơm.
Sau đó, chúng tôi tiếp tục đi suốt đêm. Chị tôi và cháu nhỏ được ngồi lại trên xe bò. Còn tôi phải đi bộ với người Miên khác và theo một lộ trình khác. Gia đình tôi lại phải xé lẻ ở đoạn đường đó, để chia làm hai nhóm. Theo lối diễn tả của họ thì nếu tôi mà ngồi chung với gia đình là bị lộ ngay lập tức.
Từ khi ấy, tôi và người Miên dẫn đường phải lội sình lầy qua các cánh đồng đầy nước. Về sau này, tôi mới biết rằng cái làng xa xa đó là làng mạc của Khmer Đỏ, tức là lực lượng Pol Pot. Do đó, tên dẫn đường cứ tìm cách dắt tôi tránh né ngôi làng của Khmer Đỏ.
Mỗi khi có tiếng súng nổ là tên dẫn đường lại dừng ngay lại để nghe ngóng, còn tôi thì hồi hộp lo lắng, vì không biết điều gì sẽ xảy tới cho mình. Đêm như dài vô tận. tôi phần sợ lạc gia đình, phần hoang mang lo âu, phần mệt mỏi vì phải đi bộ suốt đêm trường, qua các vũng sình lầy nước đọng nên tôi cứ đi như lết theo dấu chân người dẫn đường.