May 26, 2009

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 3

Phần 3: Từ Hố Lương đến Nam Vang bằng xe hàng
Trần Chí Thành


Khi đến bến phà này, chúng tôi bỏ ghe đi bộ lên bờ. Ở đây, cách thức sinh hoạt của người Miên thật từng bừng và tấp nập. Chúng tôi thấy bóng dáng lính Bộ đội Việt Nam rất nhiều. Các xe vận tải chở gạo của công ty hợp doanh số năm đậu ở đây nhiều để chờ phiên qua phà đi Nam Vang.
Người đưa đường ra hiệu cho chúng tơi tìm cách đứng hay ngồi xa nhau, cứ rải rác ở những ngã tư vắng vẻ gần đó. Thế rồi, ông ta thì đi tìm các tài xế xe vận tải để móc nối cho chúng tôi lên xe vận tải đi tiếp đến Nam Vang.
Trong lúc chờ đợi, chúng tôi rất lo sợ vì hễ một người Miên đến hỏi chuyện mà chúng tôi không biết tiếng Miên để trả lời là bị lộ ngay lập tức. Vì thế, chúng tôi càng ẩn mình chừng nào thì càng tốt. Chúng tôi không dám lộ vẻ gì đặc biệt để khỏi bị chú ý. Riêng tôi thì dùng khăn cà ma quấn nhiều vòng để che mặt hay cột đầu, hay quấn quanh cổ để dấu khuôn mặt mình lại.
Sau một hồi lâu, người đưa đường đi về phía chúng tôi và dùng mắt ra hiệu cho chúng tôi theo sau ông ta để leo lên một chiếc xe vận tải. Các xe vận tải này đều chở gạo từ Sàigòn đến Nam Vang rồi qua Battambang.
Chúng tôi hồi hộp leo lên xe vận tải này. Sàn xe rất dơ, người và súc vật đều ngồi trên sàn xe. Chúng tôi ngồi lẫn lộn trong đám người Miên, lưng đụng lưng nhau. Ai nấy nói cười và chen lấn nhau. Xe thì chật mà số người ngồi thì đông đúc.
Chúng tôi rất lo ngại vì các người bạn đồng hành cứ tìm cách gợi chuyện với chúng tôi. Nếu nói thì không biết tiếng Miên để mà bắt chuyện. Mà nếu im lặng thì sợ họ nghi là người Việt Nam đi trốn. Xe chật chội và ngột ngạt vì mùi mồ hôi người. Người ta cứ thích chen lấn và cạ sát lưng vào chúng tôi, rồi họ xấn đến hỏi chuyện và nói cười thoải mái. Cực chẳng đã, chúng tôi cứ giả bộ nhắm mắt ngủ hay giả bộ ngu dốt để tránh những sự giao thiệp khó khăn và bất lợi.
Trong chuyến xe ấy, có một thanh niên người Việt Nam mà sau này tôi đoán hắn là lính Quân báo của Cộng Sản Việt Nam. Hắn cứ lăm lăm nhìn và quan sát chúng tôi. Chừng như thấy chúng tôi không giống người Miên nên hắn vỗ vai một người trong nhóm chúng tôi và gặn hỏi:
-Anh có phải là người Việt Nam không?
Anh bạn tôi giật nẩy mình, và vì theo quy ước là tuyệt đối không được nói năng một tiếng Việt Nam nào, nên anh đã làm thinh và giả bộ quay mặt đi chỗ khác. Hắn ta bèn quay qua tôi và giáng ngay một chưởng:
-Nếu các anh đi vượt biên thì phải coi chừng. Ở đây có lính Quân báo của Việt Nam nhiều lắm!
Tôi hoảng hồn nhưng cố giữ vẻ thản nhiên và im lặng. Không hiểu xuất xứ của hắn ra sao vì hắn dám nói tiếng Việt công khai giữa đất Miên mà không sợ hãi gì cả. Tôi đoán hắn có thể là một bộ đội Việt Nam được về phép hay cũng có thể hắn là công nhân viên của nhà nước Việt Nam mà được biệt phái sang làm việc ở đất Miên. Tựu trung, hắn không thể là bạn của mình được. Chúng tôi rất lo sợ nhưng vẫn im lặng, không hé ra một tiếng Việt Nam nào.
Trong suốt lộ trình từ Hố Lương đi Nam Vang, chúng tôi lo sợ vô cùng, lòng chỉ mong cho chóng đến nơi để tìm cách thoát khỏi sợ dòm ngó của anh chàng người Việt tò mò ấy.
Chừng 12:00 giờ trưa, xe đến Nam Vang nên chúng tôi xuống xe từ ngoài thành phố để nối đuôi nhau đi vào thành phố Nam Vang. Chúng tôi cũng đã đi ngang qua những trạm gác của lực lượng lính hỗn hợp Việt Miên mà lòng thì hồi hộp và bất an.
Sau cùng, chúng tôi đi rải rác theo nhau vào một ngôi chợ ở Nam Vang để ăn trưa. Trong lúc chúng tôi đang tụ họp ăn uống thì anh thanh niên Việt Nam hồi nãy từ đâu đi tới, hắn vỗ vai tôi và nói:
-Những người vượt biên qua đây bị lính quân báo bắt nhiều lắm!
Hắn gằn giọng từng tiếng một. Mỗi câu nói của hắn dường như những mũi tên găm sâu và trái tim bồi hồi của chúng tôi. Sau đó, hắn bỏ đi. Ngay lập tức, tôi vội vàng chạy tới phiá người đưa đường để trình bày mọi việc và cũng để kiếm cách đào thoát. Ông dẫn đường cũng tái mặt vì sợ hãi.
Thế là chúng tôi vạch kế hoạch để lẩn trốn, phân tán mỏng và đánh lạc hướng nhóm lính quân báo ấy, nếu có. Ngay sau đó, người dẫn đường đứng lên, ra dấu bằng mắt để chúng tôi bám đuôi nhau đi lần lượt ra phiá cửa chính của chợ. Chúng tôi đứng lấp ló để chờ đợi ông ta hành động.
Khoảng mười lăm phút sau, khi ông dẫn đường thuê xe đạp thồ xong, ông ta trở lại ra dấu cho chúng tôi leo lên sáu chiếc xe đạp thồ để đi. Như đã thỏa thuận trước, những người Miên đi xe thồ chờ chúng tôi leo lên xe là họ phóng xe đi như bay.
Dọc đường họ cứ tưởng chúng tôi là người Miên nên nói liên tiếp và đấu hót tưng bừng. Riêng chúng tôi thì cứ ú ớ như người câm. Chúng tôi sợ phát rét trong khi ấy, cơn nắng và nóng của bầu trời Nam Vang thật dữ dội. Chỉ cần một kẻ đạp xe thồ nhiều chuyện mà muốn kiếm điểm là có thể sáu chúng tôi vào ngay trong trạm kiểm soát của lính Cộng sản Miên ngay lập tức.
Theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường, sáu chiếc xe đạp chở chúng tôi chạy lòng vòng trên các đường phố của Nam Vang. Chúng tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để mà ngắm nghía và quan sát cái thủ đô đẹp đẽ của xứ Chùa Tháp này nữa.
Sau cùng, khi đến một khu nhà thật vắng vẻ ở Nam Vang, người dẫn đường ra hiệu cho chúng tôi xuống xe. Thế là cả bọn lục tục nhảy xuống xe đạp và phân tán mỏng ngay tại một ngã tư. Chúng tôi chia nhau ngồi ở ghế đá, ở vệ đường, ở gốc cây để chờ đợi. Tuy ngồi rải rác và làm bộ như không biết nhau, nhưng thần kinh chúng tôi căng thẳng, lúc nào cũng nhìn dáo dác để quan sát chung quanh.
Người dẫn đường cũng có những ưu tư và lo lắng riêng. Ông ta nghĩ rằng làm theo cách này là để tránh được sự theo dõi của lính Quân Báo Cộng Sản, và đánh lạc hướng những kẻ muốn theo dõi chúng tôi.
Đến độ ba, bốn tiếng đồng hồ sau, nhóm chúng tôi được chia ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm ba người để đến hai trạm quen của người dẫn đường tại Nam Vang. Đó là đêm 24 tháng 4, năm 1980 , nhằm ngày thứ hai trong tuần.

May 21, 2009

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 2

Phần 2: Từ Tân Châu đến Hố Lương bằng ghe
Trần Chí Thành

Sáng hôm sau, ghe máy đã được sửa xong, nên khoảng mười giờ sáng ngày 22 tháng 4, năm 1980, chúng tôi đi bằng ghe đến Vĩnh Xương, một quận lỵ sát biên giới Việt và Cambodia. Không khí chiến tranh ở quận này càng rõ rệt và căng thẳng hơn bao giờ hết.
Chiếc ghe của những người dẫn đường vẫn thong thả ngược dòng sông MéKong để đi qua nhiều trạm kiểm soát rất chặt chẽ của Công an Biên phòng Việt Nam. Trong lúc đó, người đưa đường đưa sáu chúng tôi xuống phà đi vào phía rừng để bọc trong rừng hầu tránh các trạm kiểm soát. Chúng tôi đi qua phà khoảng nửa giờ thì đến khu rừng.
Sau đó, chúng tôi xuống phà và đi bộ lặng lẽ trong rừng, tiến sâu hơn vào những cánh rừng chừng hai tiếng đồng hồ. Đến khoảng 1:30 giờ trưa, chờ khi lính Cộng sản Việt Nam canh gác lơ là, thì chúng tôi đã vượt biên giới một cách chớp nhoáng.
Qua khỏi bìa rừng, chúng tôi đi về phía bờ sông để tìm về ghe cũ. Các người đưa đường đã đi ghe qua các trạm gác dễ dàng vì họ là người Việt gốc Miên, có giấy phép đàng hoàng, nên họ không bị trở ngại. Chúng tôi lúc này chia làm hai nhóm, rồi leo lên hai chiếc ghe để đi tiếp.
Lúc qua khỏi biên giới Việt và Cambochia, tôi cố trấn tĩnh tâm hồn để đè nén những nỗi cảm xúc đang dâng lên dào dạt trong lòng. Từ đây tôi sẽ rời bỏ quê hương, gia đình và kỷ niệm để đi nơi vùng đất Cambodia xa lạ. Tôi đã thực sự bắt đầu cuộc sống xa quê hương.
Chúng tôi phải thay đổi quần áo để cải trang thành dân quê người Miên. Chúng tôi quăng hết quần áo công nhân xuống sông và mặc những bộ đồ đen, có những khăn quàng cà ma để che đầu cho giống người bản xứ một chút.
Kể từ giây phút này trở đi, chúng tôi phải cảnh giác tối đa, không được nói bất cứ một tiếng Việt nào. Mọi sự hướng dẫn đều phải thầm lặng. Chúng tôi theo dõi lẫn nhau, phải khôn ngoan và nhanh trí để sẵn sàng đối phó với tình thế mới. Chúng tôi nhất trí phải bám sát nhau và tuân theo sự chỉ dẫn của người dẫn đường.
Hai chiếc ghe của chúng tôi đi ngược dòng sông MéKông vào chiều hôm đó. Chúng tôi phải đi qua rất nhiều trạm gác. Hễ thấy trạm gác có cờ đỏ là chúng tôi phải cho ghe tấp vào để trình giấy. Hai ghe của chúng tôi đều giả làm ghe buôn có chở đầy trái cây như dừa, chuối, cam, xoài và bánh kẹo.
Hễ tới mỗi trạm gác thì người dẫn đường vừa lên trình giấy, vừa phải hối lộ cho lính Cộng Sản Miên vài trái dừa khô, vài nải chuối hay ít bánh kẹo. Có những trạm gác khó thì lại phải hối lộ vàng và tiền nữa.
Cứ mỗi lần đến trạm kiểm soát là chúng tôi run lên, hồi hộp và nơm nớp lo sợ. May nhờ người dẫn đường có giấy tờ hợp lệ, nên chúng tôi không gặp trở lại mà êm xuôi. Ghe đi mãi trong đêm khuya vắng vẻ. Tiếng ghe chèo đập trên mặt sông nghe thật êm tai. Giá như đi chơi trên sông như thế này vào những ngày thanh bình thì còn cái thú nào bằng.
Nhưng tiếc nỗi, con sông MéKong lúc đó không phải là hồ Động Đình để cho người thi sĩ đối ẩm vịnh thơ, mà tôi cũng chẳng phải là một thi nhân hay văn nhân hưởng nhàn, mà chỉ là một thanh niên trốn chui, trốn nhủi để đi tìm tự do.
Đến nửa đêm, người dẫn đường cho thuyền dừng bên bờ sông vắng. Ông ta bảo đi ban đêm rất nguy hiểm. Vì thế, chúng tôi lặng lẽ tìm đến một ngọn đồi hoang để ngủ đỡ. Đêm trở nên vắng lặng đến rùng mình. Chúng tôi không dám nổi lửa hay chuyện trò to nhỏ vì sợ bị lộ.
Tờ mờ sáng hôm sau, 23 tháng 4, năm 1980, vào lúc năm giờ sáng, hai chiếc thuyền của chúng tôi lại tiếp tục lên đường, và lại vượt qua nhiều trạm gác ven sông nữa. Bất ngờ, khoảng sáu giờ sáng, khi trời còn tờ mờ chưa sáng rõ, hai chiếc ghe của chúng tôi bị một chiếc thuyền kiểm soát của lính Cộng Sản Miên đuổi theo và bắt lại.
Họ ra lệnh kéo hai chiếc thuyền của chúng tôi chạy ngược về phía sau, nơi chúng tôi đã đi qua. Thế rồi, họ kéo hai chiếc ghe chạy khoảng nửa tiếng đồng hồ để về một đồn canh gác của họ. Chúng tôi tái mặt, điếng hồn và lo sợ, chờ đợi sự trừng phạt. Tôi nghĩ thầm có lẽ cuộc ra đi đã chấm dứt, lại cảnh tù đày và lao động khổ sai.
Khi về đến đồn canh gác, người dẫn đường đã khôn khéo hối lộ vàng cho lính canh. Nên sau đó, họ lại cho phép chúng tôi đi tiếp. Cho đến lúc ấy, bọn chúng tôi vẫn không hề nói lời tiếng Việt nào cả nên có lẽ họ không biết chúng tôi là người Việt mà giữ lại. Chúng tôi lại tiếp tục đi ghe cho đến 9:00 giờ sáng thì chúng tôi đến bến phà Hố Lương.

May 18, 2009

Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan

Phần 1: Từ Sài Gòn tới Tân Châu, Châu Đốc
Trần Chí Thành

Nhóm chúng tôi ra đi từ Sàigòn đến Thái Lan. Chúng tôi có sáu thanh niên đi theo sự hướng dẫn của người đàn ông Miên gốc Việt. Chúng tôi khởi hành từ Sàigòn lúc 8:00 giờ sáng ngày 20 tháng 4, năm 1980.
Vượt biên bằng đường bộ là một điều hoàn toàn mới lạ với chúng tôi. Chúng tôi đã tiên liệu trước những nguy hiểm mà mình sẽ đối đầu: phải đi băng qua một đất nước lạ là xứ Cambodia với ngôn ngữ khác hẳn tiếng mẹ đẻ. Trời nước mênh mông mà mình lại không hiểu được tiếng nói của dân địa phương.
Đã ra đi là chúng tôi chấp nhận hai điều: một là thành công, hai là chịu hậu qủa thật thảm khốc như bị bắt giữ, cầm tù hay bị chết, bỏ xác trên quê người.
Tuy đã dự đoán những nguy hiểm trước mặt, nhưng xuyên qua cuộc hành trình vượt biên đường bộ gian nan trong mười lăm ngày, rồi xuyên qua kinh nghiệm xương máu ở trại tị nạn, tôi đã gặp phải nhiều sự khó khăn, nguy hiểm, đau khổ và chua xót mà không thể ngờ trước được.
Từ Sàigòn, chúng tôi khởi hành tại Xa cảng miền Tây để đến Long Xuyên và Châu Đốc. Sáu chúng tôi phải hóa trang giả làm công nhân và dùng những giấy tờ giả mạo để đi đường. Thời ấy, dân chúng không được tự do đi lại mà phải trình Công an quận, nếu họ cho phép mới được đi đến tỉnh khác.
Vì thế sự nguy hiểm đã đến với chúng tôi ngay từ phút đầu tiên, vào sáng hôm ấy, ngày 20 tháng 4 năm 1980. Chúng tôi có thể bị bắt bất cứ lúc nào, bất cứ ở trạm gác nào nếu bị Công An Việt nam phát hiện ra là giấy giả hay nếu họ tìm thấy một điều khả nghi nào nơi chúng tôi.
Từ Xa Cảng miền Tây, chúng tôi ngồi xe đò đi qua Long An, rồi Bắc Mỹ Thuận, nơi mà dòng sông Cửu Long chảy qua, nơi có những vườn cây xum xuê đầy trĩu trái. Cứ thế, chúng tôi đến Long Xuyên và Châu Đốc vào buổi xế chiều.
Đêm ấy, chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà của người dẫn đường. Đêm đầu tiên xa nhà, lại nằm trên chiếc ghe đậu bên bờ sông bến vắng. Tôi trằn trọc mãi, nhớ nhà, nhớ gia đình, nhớ nhất là mẹ tôi. Hơn nữa, tôi lại phải lo nghĩ vẩn vơ đến việc ra đi trước mặt của mình.
Chung quanh tôi đầy những âm thanh của tiếng dế gáy, tiếng ễnh ương kêu, tất cả hòa lên một điệu nhạc buồn thê lương và áo não. Tôi nghe hồn mình bồng bềnh theo nhịp sóng êm đềm vỗ nhẹ bên bờ ghe. Thế rồi lâu lắm tôi mới chợp mắt và thiếp đi một lúc.
Hôm sau, khoảng mười hai giờ trưa ngày 21, tháng 4, năm 1980, chúng tôi dùng ghe đến Tân Châu. Khi tới nơi thì vì ghe hư nên chúng tôi buộc lòng phải ngủ đêm tại Tân Châu, một thị trấn sát biên giới Việt Miên.
Nơi đây, dấu vết của chiến tranh vẫn còn vì cách đó vài tháng vừa có cuộc giao tranh giữa hai lực lượng Cộng Sản Việt và Miên: Nhà cửa đổ nát, tường nhà loang lổ ghi đầy vết đạn. Tình hình thành phố căng thẳng, sự nguy hiểm như rình rập đó đây. Quân đội của Cộng Sản Việt Nam giăng đầy khắp thành phố. Do đó, chúng tôi đã hạn chế đến mức tối đa việc di chuyển.
Lại một đêm xa nhà thứ hai. Tâm sự tôi ngổn ngang trăm mối. Tôi nhớ mẹ tôi vô vàn, người mẹ già suốt đời tận tụy hy sinh cho đàn con và chồng mình. Chắc hẳn giờ này mẹ tôi cũng đang thao thức vì lo cho tôi và nhớ đến tôi. Mẹ ơi! biết đến bao giờ con mới được gặp lại mẹ lần nữa?


(còn tiếp)

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Best WordPress Themes